Hội nghị và phiên họp được kết nối trực tuyến tới UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cùng tham dự Hội nghị và phiên họp tại điểm cầu Chính phủ có các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ: Phạm Bình Minh, Lê Minh Khái, Vũ Đức Đam, Lê Văn Thành; Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; các thành viên Chính phủ; đồng chí Đinh Văn Ân – Trợ lý Tổng Bí thư.
Theo chương trình, Hội nghị và phiên họp tập trung thảo luận một số nội dung chính: Tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022; tình hình triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; tình hình thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; tình hình triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia; nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.
Hội nghị và phiên họp cũng sẽ thảo luận về việc triển khai các dự án giao thông quan trọng quốc gia những khó khăn, vướng mắc và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới. Các dự án này gồm dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2017-2020 và giai đoạn 2021-2025; đường bộ cao tốc Khánh Hòa-Buôn Ma Thuột, Biên Hòa-Vũng Tàu, Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng; đường vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội; đường vành đai 3 vùng Thành phố Hồ Chí Minh; cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Nhận định đúng tình hình, đưa ra giải pháp phù hợp
Phát biểu khai mạc Hội nghị và phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, trong 6 tháng qua, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn, nhanh, phức tạp, có những yếu tố chúng ta dự báo được nhưng cũng có nhiều yếu tố chưa dự báo được.
Cụ thể, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt. Xung đột tại Ukraine khiến giá dầu, lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, gây đứt gãy chuỗi cung ứng. Nhiều tổ chức, chuyên gia dự báo kinh tế thế giới còn tiếp tục gặp nhiều khăn, có khả năng suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của COVID-19 và tình hình hiện nay, hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới so với đầu năm. Lạm phát tăng ở mức cao ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhiều đối tác, quốc gia lớn thay đổi chính sách về kinh tế và chống dịch. An ninh lương thực, an ninh năng lượng đang là vấn đề lớn. Dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp sau một thời gian tạm lắng, kể cả tại những nước có hệ thống y tế tiên tiến.
Trong nước, chúng ta có những thuận lợi do kế thừa thành quả của nhiều nhiệm kỳ vừa qua, đồng thời cần khắc phục nhiều vấn đề nội tại, hạn chế, bất cập, tiếp tục xử lý những vấn đề tồn đọng nhiều năm, triển khai các nhiệm vụ thường xuyên và giải quyết các vấn đề phát sinh, đột xuất, đặc biệt là sức ép lạm phát rất cao, giá cả nguyên vật liệu đầu vào, đứt gãy các chuỗi cung ứng…
Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự giám sát, ủng hộ của Quốc hội, sự đồng tình của người dân và doanh nghiệp, sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành, địa phương, dịch bệnh COVID-19 đã được kiểm soát, tình hình kinh tế-xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, nhiều mặt đạt kết quả ấn tượng.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế-xã hội còn một số khó khăn cần tiếp tục giải quyết, như dịch bệnh COVID-19 còn có thể diễn biến phức tạp, tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế… cần giải pháp phù hợp, việc giải ngân đầu tư công, chương trình mục tiêu quốc gia cần đẩy mạnh hơn nữa.
Nhấn mạnh cần tiếp tục xác định khó khăn, thách thức nhiều hơn là thuận lợi và thời cơ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị các đại biểu thảo luận thẳng thắn, chỉ rõ những việc đã làm được và chưa làm được trong 6 tháng đầu năm; nhận định khách quan, trung thực, đầy đủ, toàn diện về các kết quả, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, bài học kinh nghiệm, khó khăn, thách thức chính hiện nay, đặc biệt các địa phương cần chia sẻ những kinh nghiệm hay cũng như đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, những trọng tâm trong thời gian tới.
Hoàn thành 72,6% số nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 01/NQ-CP
Báo cáo tại Phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết từ đầu năm đến nay, nhiều sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của đất nước được tổ chức thành công, tạo nên khí thế mới, xung lực mới, nhất là Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII), kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV đã quyết định nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, tác động tích cực đến sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế.
Cùng với đó, Chính phủ đã chỉ đạo, điều hành quyết liệt, hiệu quả nhiều nhiệm vụ, giải pháp, ứng phó linh hoạt, kịp thời với những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước như: Lạm phát, giá cả tăng cao, gián đoạn chuỗi cung ứng, nguy cơ suy thoái kinh tế và mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực gắn với tác động của xung đột Nga – Ukraine; điều chỉnh chính sách tài khóa, tiền tệ của các nền kinh tế lớn, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của Việt Nam.
Nền kinh tế trong nước đã có bước phục hồi nhưng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là giá cả xăng dầu, chi phí sản xuất, sinh hoạt, vận tải tăng cao, tiềm ẩn rủi ro, thách thức, tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn, sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân, nhất là người nghèo, thu nhập thấp.
Mặc dù vậy, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; sự ủng hộ của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thống nhất, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các bộ, ngành, địa phương đã quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết 01/NQ-CP; thích ứng với bối cảnh mới; vừa tập trung giải quyết các vấn đề trước mắt và những tồn tại, yếu kém, điểm nghẽn của nền kinh tế, vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, hỗ trợ tích cực phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội (KTXH).
Tiến độ thực hiện các nhiệm vụ tại Nghị quyết 01/NQ-CP trong quý II cơ bản đáp ứng yêu cầu, hoàn thành 72,6% số nhiệm vụ được giao. Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm là rất đáng ghi nhận; kinh tế tiếp tục phục hồi đồng đều trên tất cả các ngành, lĩnh vực, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định mặt bằng tỷ giá, lãi suất, hỗ trợ tích cực cho quá trình phục hồi và phát triển KTXH.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đối mặt với không ít khó khăn, thách thức về lạm phát, nguồn cung nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, mặt bằng lãi suất, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thiếu hụt lao động cục bộ, dịch bệnh… tiềm ẩn rủi ro đến phục hồi kinh tế trong thời gian tới. Yêu cầu các cấp, các ngành không được lơ là, chủ quan, theo dõi chặt chẽ tình hình, sẵn sàng phương án điều hành chủ động, linh hoạt, ứng phó kịp thời với diễn biến thế giới và trong nước, hỗ trợ kịp thời, hiệu quả doanh nghiệp và người dân sản xuất kinh doanh, bảo đảm đời sống người dân, nhất là người nghèo, thu nhập thấp.
Hỗ trợ 48 nghìn tỷ đồng theo Chương trình phục hồi và phát triển KTXH
Về ban hành, triển khai các chính sách hỗ trợ tại Chương trình phục hồi và phát triển KTXH theo Nghị quyết số 11/NQ-CP, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Chính phủ, các bộ, cơ quan, địa phương đã chủ động, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao. Sau hơn 5 tháng triển khai, hoàn thành khối lượng lớn công việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu, tiến độ đề ra; ban hành gần như đầy đủ các văn bản để cụ thể hóa các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết.
“Đây là kết quả rất đáng ghi nhận khi nhiều chính sách mới nhưng đã được đánh giá tác động đầy đủ và trình ban hành theo đúng quy định thời gian ngắn. Một số nội dung có tính chất phức tạp, liên quan đến việc thực hiện các dự án thuộc Chương trình của nhiều bộ, cơ quan, địa phương đang được gấp rút xây dựng, hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ hầu hết đạt kết quả tốt, đạt trên 48 nghìn tỷ đồng. Trong đó, các chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện đạt 8.888 tỷ đồng; gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và tiền thuê đất là 7,4 nghìn tỷ đồng; miễn giảm thuế VAT, thuế môi trường đối với nhiên liệu bay, xăng khoảng 32,4 nghìn tỷ đồng.
Đồng thời, thực hiện cho vay tín dụng chính sách được hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 36/2022/NĐ-CP là 57,37 nghìn tỷ đồng. Một số chính sách gặp vướng mắc trong quá trình thực hiện đã nhanh chóng được điều chỉnh để tạo thuận lợi trong triển khai, thực hiện.
Tuy nhiên, đại diện lãnh đạo Bộ KH&ĐT cũng cho hay, tình hình xây dựng một số văn bản thực hiện chưa bảo đảm tiến độ, việc thực hiện và giải ngân một số chính sách đã ban hành còn chậm, đạt kết quả thấp, chưa hỗ trợ người dân và doanh nghiệp kịp thời, ảnh hưởng hiệu quả Chương trình. Để đẩy nhanh tiến độ triển khai, Chính phủ đã chỉ đạo thành lập Ban Chỉ đạo về triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển KTXH.
Đáng chú ý, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 450/TTg-KTTH ngày 20/5/2022 thông báo danh mục và mức vốn cho các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương để hoàn thiện thủ tục đầu tư. Tuy nhiên, đến nay còn 11 dự án của 8 bộ, cơ quan Trung ương, địa phương chưa có báo cáo gửi Bộ KH&ĐT về việc hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án và 26.799 tỷ đồng chưa đủ điều kiện để trình Thủ tướng Chính phủ thông báo danh mục và mức vốn.
Do đó, Bộ KH&ĐT đề nghị các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương căn cứ quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, quy định tại Điều 16, 52 Luật Đầu tư công, khẩn trương rà soát, hoàn thiện phương án, thủ tục đầu tư nhiệm vụ, dự án gửi Bộ KH&ĐT để báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định.
Tập trung 6 giải pháp “đốc” giải ngân vốn đầu tư công
Theo Báo cáo của Bộ KH&ĐT, ước giải ngân đến 30/6/2022 đạt 27,86% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2021 đạt 29,02%). Cụ thể, 39/51 bộ, cơ quan Trung ương và 6/63 địa phương có tỉ lệ giải ngân đạt dưới 20% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm. Trong đó, 25 bộ, cơ quan Trung ương có tỉ lệ giải ngân dưới 10% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm, đặc biệt có 4 cơ quan Trung ương đến nay vẫn chưa giải ngân kế hoạch vốn.
Để nhanh chóng khắc phục những bất cập trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề xuất các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương cần tập trung vào 6 nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, tập trung chỉ đạo, thực hiện các giải pháp, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong giải ngân vốn đầu tư công 6 tháng cuối năm, trong đó phân công lãnh đạo phụ trách từng dự án.
Thứ hai, người đứng đầu phải trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan và chịu trách nhiệm giải trình về kết quả giải ngân cũng như hiệu quả đầu tư.
Thứ ba, nâng cao năng lực, trách nhiệm thực thi công vụ, gắn trách nhiệm, đánh giá mức độ hoàn thành công việc với tiến độ thực hiện giải ngân của dự án, nhất là Ban Quản lý dự án các cấp; luân chuyển, điều động, kỷ luật đối với cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ.
Thứ tư, nâng cao chất lượng chuẩn bị đầu tư dự án, từ sớm, từ xa, hạn chế tối đa việc thay đổi, điều chỉnh dự án.
Thứ năm, chính quyền các cấp phải tăng cường quản lý hiệu lực, hiệu quả đất đai, nhất là nguồn gốc đất, quy hoạch sử dụng các loại đất… hạn chế tối đa việc điều chỉnh phương án đền bù, bảo đảm tiến độ thực hiện.
Thứ sáu, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hoặc Sở Xây dựng) công bố giá và chỉ số giá các loại vật liệu xây dựng theo tháng phù hợp với diễn biến thị trường.
Ngoài ra, về cắt giảm, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương năm 2022, Bộ KH&ĐT đề nghị các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương không có khả năng thực hiện, giải ngân kế hoạch vốn năm 2022 đã được Thủ tướng Chính phủ giao, thì sớm đề xuất điều chuyển vốn cho các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương khác có nhu cầu bổ sung vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đã được giao kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, các dự án có thể giải ngân ngay sau khi được giao kế hoạch đầu tư công trung hạn, các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển KTXH.
Phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm khoảng 7%
Trên cơ sở kết quả 6 tháng đầu năm, dự báo tình hình 6 tháng cuối năm, Bộ KH&ĐT kiến nghị phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm khoảng 7,0%, cao hơn mức phấn đấu cao khoảng 0,5% so với mục tiêu Quốc hội giao và Chính phủ đề ra (từ 6-6,5%), tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2023.
Kịch bản tăng trưởng được Bộ đưa ra cụ thể như sau:
Kịch bản 1: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5%, quý III cần đạt mức tăng trưởng là 7,9% (trong khoảng 7,5-8% tại Nghị quyết 01/NQ-CP), quý IV tăng 5,5% (thấp hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,7 điểm phần trăm).
Kịch bản 2: Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7,0%, quý III phải đạt mức tăng trưởng là 9% (cao hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 1 điểm phần trăm) và quý IV tăng 6,3% (trong khoảng 6,7-6,7% tại Nghị quyết 01/NQ-CP).
Ngoài ra, Bộ trưởng nguyễn Chí Dũng cũng cho biết, trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước thời gian tới tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, khó lường trong cả ngắn hạn và trung hạn, thu ngân sách Nhà nước cả năm dự báo đạt tốt, tạo dư địa tài khóa để có thể chủ động hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, người dân trong trường hợp cần thiết.
Cùng với đó, chính sách tiền tệ cần thận trọng, chủ động thích ứng với rủi ro lạm phát, tỷ giá, điều hành tín dụng đáp ứng nhu cầu phục hồi sản xuất, kinh doanh; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí quản trị, hoạt động để giảm lãi suất cho vay, giảm bớt áp lực chi phí vốn cho doanh nghiệp, nền kinh tế.
Chính sách thương mại, sản xuất cần chủ động phương án điều tiết để bảo đảm nguồn cung hàng hóa, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước, nhất là thời gian cuối năm 2022, đầu năm 2023, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, an ninh lương thực.
Cũng theo đại diện lãnh đạo Bộ KH&ĐT, các bộ, cơ quan và địa phương cần triển khai thực hiện nhanh, hiệu quả, thực chất, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết 01/NQ-CP, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (2022-2023); chủ động phương án ứng phó linh hoạt, kịp thời với các tình huống phát sinh, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn; chủ động nghiên cứu, đề xuất, có giải pháp hỗ trợ kịp thời doanh nghiệp, người dân, nhất là người nghèo, thu nhập thấp trước áp lực về giá, chi phí sản xuất, sinh hoạt tăng cao
theo Xuân Lan – Báo công lý
https://congly.vn/khai-mac-hoi-nghi-truc-tuyen-chinh-phu-voi-cac-dia-phuong-209834.html