Một là, các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) được triển khai kịp thời, đem lại quyền lợi cho người dân; hệ thống quản lý nhà nước về BHXH từng bước được hiện đại và chuyên nghiệp; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành được triển khai thực hiện từ tỉnh đến cơ sở. Ước thực hiện năm 2024, số người tham gia BHXH là 141.519 người, bằng 100% kế hoạch 141.519 người, đạt 108,56% so với cùng kỳ năm 2023 (130.355 người); số người tham gia BHTN là 104.414 người, đạt 100% kế hoạch 104.414 người, đạt 103,58% so với cùng kỳ năm 2023 (100.807 người).
Hai là, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể, các địa phương với ngành Bảo hiểm xã hội, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình, mục tiêu cải cách bảo hiểm xã hội được tăng cường và chủ động hơn.
Ba là, thị trường lao động phát triển ổn định, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hoạt động bình thường; ngành nghề nông nghiệp phát triển ổn định; có nhiều doanh nghiệp ngoài tỉnh, doanh nghiệp có chức năng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về phối hợp với Trung tâm dịch vụ việc làm Đắk Lắk và các huyện, thị xã và thành phố để tuyển dụng lao động. Ước thực hiện năm 2024, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 30.350 người, đạt 100,5% kế hoạch (KH 30.200 người); bằng 100,6% so với năm 2023.
Bốn là, chủ động và kịp thời triển khai các nghị định, thông tư và các văn bản hướng dẫn, triển khai công tác giáo dục nghề nghiệp đến các huyện, thị xã, thành phố, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện.
Năm là, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã rất linh hoạt, chủ động nắm bắt và đáp ứng nhu cầu học nghề của thanh niên; đổi mới và sáng tạo trong việc gắn kết, liên kết, phối hợp với doanh nghiệp, người sử dụng lao động, chính quyền địa phương trong truyền thông, tư vấn tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp làm tiền đề cho mùa tuyển sinh trong năm.

Người lao động tìm hiểu về việc làm tại Ngày hội việc làm ở Đắk Lắk
Sáu là, công tác chính sách người có công được các cấp, các ngành tiếp tục quan tâm thực hiện; đặc biệt công tác tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện công tác người có công được kịp thời. Tổng số đối tượng hưởng các chế độ chính sách trên địa bàn của tỉnh do Sở quản lý có gần 60 nghìn hồ sơ đối tượng; trong đó, đối tượng Người có công, thân nhân Người có công là hơn 45 nghìn hồ sơ và hơn 14 nghìn hồ sơ đối tượng liên quan khác (không phải người có công nhưng được hưởng các chế độ ưu đãi của nhà nước do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý, như: Thanh niên xung phong, hưởng chế độ theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ như: Quyết định 290; 142; 53; 62; 57; 49...). Số đối tượng hưởng trợ cấp hằng tháng là hơn 10 ngàn đối tượng, với kinh phí chi trả hơn 32 tỷ đồng/tháng; tất cả hồ sơ đối tượng người có công đã được nhập máy để theo dõi và lưu file ở kho quản lý theo quy định.
Bảy là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về phòng, chống ma túy đã từng bước đổi mới nội dung, đa dạng hóa đến các huyện, thị xã, thành phố, các cơ sở cai nghiện ma túy thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản hướng dẫn. Trong 10/2024, có 515 người nghiện ma túy được điều trị, cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng. Trong đó, cai nghiện bắt buộc theo quyết định của Tòa án 311 người, cai nghiện tự nguyện theo hợp đồng dịch vụ tại các cơ sở cai nghiện 204 người (Cơ sở cai nghiện ma túy công lập 104 người, các cơ sở cai nghiện ma túy ngoài công lập 100 người).
Tám là, giảm nghèo bền vững đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể quan tâm, chỉ đạo trở thành nhiệm vụ, mục tiêu ưu tiên, được cụ thể hóa thành Chương trình của Tỉnh ủy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, kế hoạch của UBND các cấp và của từng đơn vị. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo phát triển sản xuất, tiếp cận các dịch vụ xã hội như: Nguồn vốn cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội, các chính sách dạy nghề, khuyến nông, hỗ trợ về y tế, giáo dục, trợ giúp pháp lý, tiền điện góp phần tạo việc làm, giảm nghèo và từng bước nâng cao chất ượng cuộc sống của hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Chín là, chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng được thực hiện đầy đủ, kịp thời, góp phần cải thiện đời sống tinh thần, vật chất cho các đối tượng; công tác tiếp nhận, chăm sóc nuôi dưỡng các đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội chu đáo, bảo đảm đúng quy định. Các địa phương đã chủ động bố trí nguồn lực để trợ giúp đột xuất cho các cá nhân, hộ gia đình bị thiếu đói, bị thiệt hại về người, nhà ở do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác kịp thời, đúng quy định. Tỷ lệ chi trả chính sách trợ giúp xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Mười là, công tác quản lý nhà nước về trẻ em và bình đẳng giới luôn được đẩy mạnh, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội phát huy được vai trò trong việc chủ trì, điều phối trên các mặt công tác; Công tác tham mưu cho UBND chỉ đạo và công tác hướng dẫn, triển khai về chuyên môn, nghiệp vụ; công tác phối hợp liên ngành không ngừng được đẩy mạnh, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh quan tâm.
Đáng chú ý, Sở đã kịp thời tham mưu UBND tỉnh trình Tinh ủy ban hành Chương trình hành động số 54-CTr/TU ngày 28/02/2024 của Tỉnh ủy Đắk Lắk thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Về công tác thanh tra, kiểm tra, hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, không phát sinh đơn thư tồn đọng, kéo dài, không phát sinh đơn thư khiếu kiện đông người.
Mười tháng đầu năm đã tiếp đón 49 lượt công dân đến hỏi về chế độ người có công, bảo trợ xã hội, chính sách lao động, tiền lương.
Những tháng cuối năm, Sở sẽ tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp phát triển thị trường lao động; điều tra nhu cầu lao động trong các loại hình doanh nghiệp; thu thập thông tin về nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động. Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; tiếp tục cải thiện, nâng cao đời sống người có công, người nghèo, đối tượng yếu thế trong xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững./.