Theo Bộ NN và PTNT, sau 5 năm triển khai quy hoạch, đến nay, cả nước đã có 23 địa phương trồng cây mắc ca với diện tích hơn 16,5 nghìn ha. Trong đó, chín tỉnh nằm trong quy hoạch ở hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên trồng khoảng 15,4 nghìn ha, tăng 55% diện tích so với quy hoạch; còn lại hơn 1.000 ha nằm rải rác tại 14 tỉnh khác chưa có trong quy hoạch. Về sản lượng, năm 2020 các tỉnh dự kiến thu hoạch gần 6,6 nghìn tấn hạt tươi, tăng gần 24,5 lần so năm 2015. Với giá bán sản phẩm dạng hạt sấy khoảng 200 triệu đồng/tấn như hiện nay, ước tính sẽ mang lại giá trị khoảng 788 tỷ đồng (trong đó khoảng 60% xuất khẩu, còn lại phục vụ tiêu dùng trong nước). Đến nay, sản phẩm mắc ca đã xuất khẩu với sản lượng hơn 2,4 nghìn tấn sản phẩm sấy/năm tới thị trường các nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Mỹ, Pháp… Định hướng trong thời gian tới, cần tiếp tục phát triển mắc ca là cây trồng trong 20 loài cây trồng rừng chính, tăng diện tích vùng trồng tập trung, từ đó xây dựng thành một ngành hàng mới của nông nghiệp Việt Nam, phấn đấu đến 2030 đạt doanh thu một tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 600 triệu USD.
Phát biểu ý kiến tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc biểu dương Bộ NN và PTNT, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, hộ nông dân đã mang lại thắng lợi bước đầu cho cây mắc ca. Thủ tướng cho rằng đây là một loại cây, loại quả có thể “đi sau, về trước” nếu biết cách làm. Thủ tướng yêu cầu ngành nông nghiệp, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam phải trả lời cho được những câu hỏi để làm sao mắc ca có thể phát triển xứng tầm điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Cây mắc ca chứa đựng nhiều giá trị xã hội đặc biệt, không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế, vì cây mắc ca có thể vào vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng khó khăn, vùng đồng bào có thu nhập thấp, là cây xóa đói, giảm nghèo và làm giàu. Cây mắc ca có ý nghĩa “quốc kế, dân sinh”, mang lại hiệu quả kinh tế và giải quyết nhiều việc làm cho người dân.
Thủ tướng nêu rõ, nếu chúng ta biết ứng dụng khoa học công nghệ, liên kết chuỗi giá trị. Đến nay, không chỉ có thị trường, thu nhập mang về từ trồng cây mắc ca lên tới 250 triệu đồng/ha, gấp 3 lần cây cà-phê. Do đó, Việt Nam cần có quy hoạch vùng trồng, đi liền với quản lý giống, xử lý vấn đề vốn, đẩy mạnh chế biến sâu… Cần nghiên cứu thấu tình đạt lý, “đừng để phát triển ồ ạt”. Mắc ca là sản phẩm tốt, cũng là nguyên liệu tốt cho các sản phẩm chế biến sâu khác như nguyên liệu mỹ phẩm cao cấp, sô-cô-la nhân mắc ca, bột dinh dưỡng… Phải đi theo hướng này thì mới có giá trị gia tăng cao.
Thủ tướng đặt vấn đề, nếu giữ năng suất bốn đến năm tấn hạt/ha và giá bán như hiện nay, thì 1 ha cho thu hoạch 200 đến 300 triệu đồng. Do đó, một câu hỏi đặt ra đối với Hiệp hội Mắc ca, cơ quan quản lý nhà nước, các nhà khoa học là tại sao không phát triển nhanh loại cây này. Giống là yếu tố quyết định. Cần quan tâm ngay từ khâu sản xuất giống có chất lượng, lựa chọn phù hợp với từng khu vực. Nhắc lại phản ánh của nông dân về vấn đề giống tại cuộc đối thoại ngày 28-9, Thủ tướng lưu ý, phải quản lý, công bố cụ thể, “đừng để trồng mà không có quả thì tội cho người dân”; nhất trí cho rằng, phải tập trung quy hoạch phát triển cây mắc ca cho vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, còn các nơi khác xem xét cho thí điểm trước khi kết luận trồng đại trà. Thủ tướng nhấn mạnh, dứt khoát phải phát triển công nghiệp chế biến, “càng sâu càng tốt”. Các ngành ngân hàng, tài chính cần dành nguồn vốn hỗ trợ trồng mắc ca cho người dân với những chính sách cụ thể về lãi suất và những ưu đãi cần thiết khác. Phải quản lý đồng bộ về vấn đề phát triển cây mắc ca khi công bố quy hoạch, Thủ tướng nhất trí, có thể thành lập hợp tác xã phát triển cây mắc ca từ sản xuất cho đến chế biến.
Căn cứ thực tế, kết quả của hội nghị và những vướng mắc hiện hành, Thủ tướng giao Bộ NN và PTNT cùng Hiệp hội Mắc ca và các địa phương xây dựng một chiến lược phát triển cây mắc ca ở Việt Nam. Bộ NN và PTNT chủ trì nghiên cứu xây dựng một nghị định về phát triển mắc ca, do hiện nay chính sách dành cho loại cây này đang phân tán.