Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng diễn ra từ ngày 27 đến 31/3/1935 tại nhà số 2 Quan Công Lộ, Ma Cao, Trung Quốc, có 13 đại biểu đại diện cho 500 đảng viên trong cả nước. Lúc này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang công tác ở Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu Đoàn Đại biểu của Đảng ta đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII nên không tham dự được. Đại hội có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, đánh dấu đã khôi phục lại được hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.

Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ III xác định rõ 2 nhiệm vụ: miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước. (Ảnh tư liệu)
Nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng, tăng cường phát triển Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, biến mỗi xí nghiệp thành một thành lũy của Đảng. Đảm bảo thống nhất tư tưởng và hành động, tăng cường phê bình và tự phê bình đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả” khuynh và “hữu” khuynh. Đại hội nhấn mạnh Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, bênh vực quyền lợi của quần chúng, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng. Đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc, vạch trần luận điệu “hòa bình” giả dối của đế quốc. Đại hội quyết định thành lập Ban Chống chiến tranh đế quốc do Đảng lãnh đạo, bao gồm đại biểu của nhiều tổ chức cách mạng và cá nhân yêu nước, hòa bình và công lý.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 ủy viên (9 ủy viên chính thức, 4 ủy viên dự khuyết), đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 tại xã Vinh Quang (sau này là Kim Bình) huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, đại diện cho 76 vạn đảng viên. Khách quốc tế có đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc, đại biểu Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan). Đại hội quyết định đưa Đảng ta ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương Điều lệ và Tuyên ngôn của Đảng. Đại hội quyết định thành lập những tổ chức cách mạng phù hợp với hoàn cảnh Lào, Campuchia. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào và Campuchia lãnh đạo kháng chiến của hai dân tộc ấy giành thắng lợi hoàn toàn.
Đây là kỳ Đại hội của khối đoàn kết tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc. Đại hội đã đưa ra những quyết sách vô cùng đúng đắn lãnh đạo đất nước ta giành thắng lợi suốt 9 năm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi vẻ vang khắp năm châu, chấn động địa cầu.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI có ý nghĩa hết sức đặc biệt đề ra đường lối đổi mới toàn diện, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (Ảnh tư liệu)
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng. Bộ Chính trị do Trung ương bầu gồm 7 ủy viên chính thức là các đồng chí: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, 1 ủy viên dự khuyết là đồng chí Lê Văn Lương. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, đáp ứng được yêu cầu sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đại hội III của Đảng diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960 tại Thủ đô Hà Nội, tham dự có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 500.000 đảng viên của 2 miền đất nước, có 16 Đảng Cộng sản cử đại biểu đến dự và nhiều tổ chức quốc tế. Kỳ Đại hội duy nhất trong 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Đại hội xác định rõ nhiệm vụ 2 miền Nam, Bắc. Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Miền Bắc có vai trò quyết định nhất với sự phát triển toàn bộ cách mạng Việt Nam và sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đại hội khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội quyết định ở miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, cuộc cách mạng này có vai trò quyết định trực tiếp với sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Đại hội nhận định cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước. Miền Bắc tăng gia sản xuất, là hậu phương cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam, tiến lên hoàn thành thắng lợi cách mạng thống nhất toàn vẹn nước nhà.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương có 47 ủy viên chính thức, 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị có 11 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư có 7 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu laị làm Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Nghị quyết Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đại hội IV của Đảng diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976 tại Hà Nội. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi đất nước thống nhất từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tham dự Đại hội có 1008 đại biểu thay mặt cho 1.550.000 đảng viên, của 38 Đảng bộ tỉnh, thành và cơ quan trực thuộc Trung ương trong cả nước. Trong số đại biểu đó có 214 đồng chí vào Đảng trước Cách mạng Tháng Tám 1945, 200 đại biểu đã từng bị đế quốc giam cầm, 39 đại biểu Anh hùng các lực lượng vũ trang và Anh hùng lao động, 142 đại biểu nữ, 98 đại biểu thuộc dân tộc thiếu số. Đến dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và công nhân, của phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.
Đại hội quyết định thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cả nước. Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước gồm:
- Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Đường lối xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội quyết định khôi phục lại tên cũ của Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982 tại Hà Nội thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời xác định rõ mối quan hệ mật thiết giữa 2 nhiệm vụ chiến lược này trong tình hình mới.
Đại hội VI diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 có một ý nghĩa hết sức đặc biệt, đề ra đường lối đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế của nền kinh tế hiện vật, kế hoạch, phi hàng hóa, phi thị trường, nhấn mạnh đổi mới toàn diện hết sức cần thiết, trong đó phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đây là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng tạo tiền đề cho việc triển khai đồng bộ các giải pháp đổi mới trên các lĩnh vực, nhất là đổi mới về kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ VII của Đảng từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991 thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng. Cương lĩnh đã nêu ra những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lenin là nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các kỳ Đại hội VIII đến Đại hội XI tiếp tục con đường đổi mới mà Đại hội VI đề ra, tổng kết những vấn đề lý luận – thực tiễn trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, rút ra bài học kinh nghiệm, định hướng về nhận thức, hành động trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Đại hội lần thứ XI đã tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được Đại hội bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ XII của Đảng từ ngày 20 đến ngày 28/01/2016 với chủ đề: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện công tác đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng từ ngày 25/01 đến ngày 02/02/2021 đánh dấu chặng đường 35 năm đổi mới đất nước, đánh dấu 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (1991) và 10 năm Cương lĩnh (bổ sung phát triển 2011). Đại hội đánh giá sự nỗ lực vượt bực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ kép vừa phòng chống dịch Covid-19 vừa phát triển kinh tế của năm 2020. Đại hội XIII quyết định đưa nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, với tư duy mới, tầm nhìn mới. Chủ đề của Đại hội: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII quyết định đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, với tư duy mới, tầm nhìn mới. (Ảnh tư liệu)
Đại hội lần thứ XIV của Đảng dự kiến diễn ra vào tháng 01/2026 tại Thủ đô Hà Nội, khởi đầu cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên phát triển bức phá, tăng tốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập bình quân cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao, mọi người dân đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh.
Đây là mốc son lịch sử có ý nghĩa như công cuộc đổi mới lần thứ hai của Đảng.
Trải qua 13 kỳ Đại hội đã khẳng định Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác, đạt được nhiều thành tựu quan trong trên các mặt, đưa đất nước không ngừng phát triển đi lên, đời sống người dân ngày một ấm no, hạnh phúc. Chúng ta tin tưởng Đại hội lần thứ XIV của Đảng sẽ đưa đất nước ta vươn lên tầm cao mới. Hơn lúc nào hết ý Đảng, lòng dân, mọi người dân chúng ta chung sức, chung lòng cùng với Đảng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIV.
theo HẢI HƯNG - Tạp chí luật sư VN