Đang diễn ra Tọa đàm về “Luật hóa một số vấn đề theo tinh thần Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu
![]() |
Toàn cảnh Tọa đàm |
Tham dự Tọa đàm, có ông Đào Quốc Dũng - Vụ địa phương 3 Ban Tuyên giáo và Dân vận TW, ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 2, GS.TS. Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh UEH, ông Trần Phương Hồng - Phó Cục Trưởng Cục THADS TP HCM, TS. Sỹ Hồng Nam, Phó Chánh Văn phòng TAND TP HCM, ông Nguyễn Nhật Thanh - Giảng viên Trường ĐH Luật TP HCM.
Cùng tham dự Tọa đàm còn có đại diện có các TCTD, doanh nghiệp, chuyên gia pháp lý, các cơ quan báo chí - truyền thông...
![]() |
Các đại biểu tham dự Tọa đàm |
Phía nhà tài trợ Tọa đàm, có đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) có: ông Nguyễn Công Khoa - Phó Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ có vấn đề - Ngân hàng Agribank, Ông Vũ Việt Hưng - Phó trưởng Ban Pháp chế Ngân hàng Agribank; ông Đặng Văn Sang - Phó Trưởng Văn phòng Đại diện khu vực miền Nam Ngân hàng AgribankCông ty Cổ phần Tập đoàn MCV, Công ty Cổ phần Công nghệ Di Động Việt.
![]() |
Nhà báo Hà Ánh Bình - Phó Tổng biên tập Báo Pháp luật Việt Nam |
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Nhà báo Hà Ánh Bình - Phó Tổng biên tập Báo Pháp luật Việt Nam cho biết Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã từng là một bước đột phá lớn trong hoạt động xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Sau hơn 6 năm thực hiện, nghị quyết đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần khơi thông dòng vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào cuối năm 2023, hệ thống các tổ chức tín dụng đang đối mặt với nhiều khó khăn trong việc xử lý nợ xấu do thiếu cơ chế đặc thù. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần tiếp tục luật hóa những nội dung cốt lõi, hiệu quả của Nghị quyết 42 nhằm bảo đảm tính liên tục, ổn định và bền vững cho quá trình lành mạnh hóa thị trường tài chính – ngân hàng.
Phó tổng biên tập Hà Ánh Bình kỳ vọng tại Tọa đàm hôm nay, các đại biểu cùng chia sẻ những vướng mắc thực tiễn, cùng nhìn lại các bài học kinh nghiệm, và đặc biệt, cùng đề xuất các giải pháp, kiến nghị có giá trị để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tín dụng – tài chính.
Chia sẻ về thông tin về vấn đề xử lý nợ xấu, ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 2 cho hay: Việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo (TSBĐ) nợ vay để thu hồi nợ vẫn còn nhiều phát sinh tồn tại hạn chế, cũng như trách nhiệm của khách hàng trong vay và trả nợ ngân hàng… Đồng thời từ kết quả thực hiện thí điểm xử lý nợ xấu theo NQ 42 của Quốc hội- phản ánh sự cần thiết luật hóa một số nội dung của NQ nhằm tạo thuận cho quá trình xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, với yêu cầu cao về tốc độ tăng trưởng.
Với ý nghĩa đó, theo ông Lệnh, nhìn ở góc độ quản lý và đánh giá toàn diện, việc luật hóa nghị quyết 42 không chỉ tác động điều chỉnh trực tiếp đối với công tác xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ để thu hồi nợ mà còn mang lại những kết quả to lớn hơn, toàn diện hơn về thực hiện nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
“Cần luật hóa việc thu giữ tài sản bảo đảm, đây là tác động trực tiếp đến xử lý nợ xấu. Luật hóa vấn đề này là hành lang pháp lý thuận lợi, tiết giản chi phí thời gian, chi phí khác cho ngân hàng trong việc xử lý thu hồi xử lý nợ xấu. Tạo một chính sách trúng - đúng là nguồn lực cho kinh tế phát triển” ông Lệnh cho biết.
![]() |
GS.TS Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh - Đại học Kinh tế TP HCM |
Chia sẻ tại Tọa đàm, GS.TS Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh - Đại học Kinh tế TP HCM nói: "Trước những thách thức hiện tại và những kết quả tích cực đã đạt được trong giai đoạn thí điểm, việc luật hóa các quy định hiệu quả của Nghị quyết 42 là bước đi chiến lược và cần thiết để tạo lập một khuôn khổ pháp lý vững chắc, đồng bộ và ổn định cho công tác xử lý nợ xấu."
Tuy nhiên, GS.TS Võ Xuân Vinh cho rằng để luật hóa thực sự phát huy hiệu quả và bền vững, cần chú trọng đến việc xây dựng các quy định chi tiết, minh bạch, đảm bảo cân bằng hài hòa giữa quyền lợi của TCTD và người đi vay, đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Theo ông, xử lý nợ xấu không chỉ là nhiệm vụ của ngành ngân hàng mà là trách nhiệm chung của toàn hệ thống chính trị - pháp luật và cộng đồng doanh nghiệp, người dân, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền tài chính – tín dụng lành mạnh, minh bạch và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nước.
GS.TS Võ Xuân Vinh đề xuất, để bảo vệ tài sản một cách tốt nhất, minh bạch và công bằng, người dân và doanh nghiệp cần nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc vay và trả nợ, tuân thủ đầy đủ các cam kết trong hợp đồng tín dụng. Trước khi vay vốn, cần tìm hiểu kỹ về các điều khoản, lãi suất, phí và các quy định liên quan đến tài sản đảm bảo. Trong quá trình vay, cần chủ động theo dõi tình hình tài chính, có kế hoạch trả nợ rõ ràng và thông báo kịp thời cho tổ chức tín dụng nếu gặp khó khăn trong việc trả nợ để cùng tìm hướng giải quyết.
Về phía các cơ quan chức năng, theo GS Vinh, cần tăng cường công tác quản lý, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật trong hoạt động cho vay và xử lý nợ xấu. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tín dụng ngân hàng để nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ của mình. Đặc biệt, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực thi các quy định về thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo để ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực từ phía các tổ chức tín dụng. Cuối cùng, việc hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các tổ chức tín dụng đánh giá chính xác hơn rủi ro tín dụng và người dân, doanh nghiệp nâng cao ý thức về lịch sử tín dụng của mình.
Khẳng định Nghị quyết 42, Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 đã luật hóa một số quy định về nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm. Hành lang pháp lý này đã giúp việc xử lý nợ xấu diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương Hồng - Phó Cục Trưởng Cục Thi hành án Dân sự TP.HCM, điều này gây khó khăn lớn cho các TCTD trong việc thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng xoay vòng vốn cũng như tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý của người dân và doanh nghiệp, nhất là khi Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2024.
![]() |
Ông Trần Phương Hồng - Phó Cục Trưởng Cục Thi hành án Dân sự TP.HCM |
Ông cung cấp thông tin tới Tọa đàm: Luật các TCTD lần này, đề xuất ba nhóm chính sách với mục tiêu bảo đảm cân bằng giữa quyền lợi hợp pháp của TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ với các quyền hợp pháp của bên bảo đảm tài sản.
Một là, luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Theo đó, quy định rõ TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp tại hợp đồng bảo đảm đã có thỏa thuận về việc này. Đồng thời, việc thu giữ tài sản bảo đảm phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ tục theo quy định. Trong quá trình thu giữ, các TCTD không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Hai là, luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án. Theo đó, tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc trường hợp có sự đồng ý của TCTD.
Ba là, luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Theo đó, sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD.
Nhìn từ góc độ cơ quan tố tụng, TS. Sỹ Hồng Nam - Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu tác động đến nhiều đạo luật quan trọng như: Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Nhà ở, Luật Đất đai... Do đó, để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả của chế định này cần phải luật hóa việc xử lý nợ xấu của các TCTD thành đạo luật riêng hoặc trong Luật CTCTD.
![]() |
TS. Sỹ Hồng Nam - Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh |
“Điểm mới của Nghị quyết 42 tháo gỡ khó khăn cho tổ chức tín dụng, khuyến khích tổ chức, cá nhân mua nợ xấu, từng bước hình thành thị trường mua bán nợ. Nội dung này được quy định tại Điều 9: Bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu mà tài sản bảo đảm của khoản nợ đó là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai. Được quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua; Bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu mà tài sản bảo đảm của khoản nợ đó là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai được kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp.” ông Nam nói
Ông Nam cũng chia sẻ một số thông tin mà ông cho rằng còn nhiều mâu thuẫn liên quan đến vấn đề xử lý Nợ xấu:
Về đăng ký tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên mua nợ xấu: Nghị quyết 42 giao Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bộ Tài nguyên và Môi tường đã ban hành Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 nhưng hướng dẫn này không đầy đủ đã dẫn đến tổ chức, cá nhân mua bán nợ được đăng ký giao dịch bảo đảm kế thừa tổ chức tín dụng đã bán nợ xấu nên các cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thường từ chối với lý do chưa văn bản hướng dẫn. Điều này dẫn đến tranh chấp và rủi ro cho bên mua nợ, chưa khuyến khích các tổ chức, cá nhân mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Về xác định điều kiện để thu giữ tài sản đảm bảo: Điểm d khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là: “Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”. Do chưa có hướng dẫn cụ thể cũng như thực tiễn khi tổ chức tín dụng tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của bên đảm bảo thì chủ sở hữu tài sản bảo đảm tạo ra các tranh chấp và có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.
Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án phải thụ lý giải quyết tranh chấp khi tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Tòa án và người khởi kiện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; khi thụ lý vụ án ngoài đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án không có nghĩa vụ thông báo hay tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trong khi đó, giữa Tòa án với cơ quan Thi hành án cũng như cơ quan quản lý đất đai không có sự liên thông để cho phép kiểm tra, trích dẫn thông tin liên quan đến tài sản tranh chấp.
Theo ông Nam, hiện đang còn những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện thủ tục rút gọn như: Sau Nghị quyết 42, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng về thủ tục rút gọn, nhưng thực tế rất khó áp dụng thủ tục này. Tại TP HCM các tranh chấp liên quan đến tín dụng nói chung và tranh chấp có liên quan đến nợ xấu nói riêng rất lớn, nhưng đến nay chưa có vụ nào được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
(Tọa đàm đang tiếp tục với những tham luận khác từ phía TAND TP HCM, Cục THADS TP HCM, Trường đại học Luật TP HCM. Mời độc giả nhấn F5 để tiếp tục cập nhật thông tin)
![]() |
Toàn cảnh Tọa đàm |
Tham dự buổi tọa đàm, phía Báo Pháp luật Việt Nam có ông Hà Ánh Bình - Phó Tổng biên tập, nhà báo Võ Thị Phương Thảo - Phó Trưởng đại diện phụ trách văn phòng đại diện tại TP HCM.
Tham dự Tọa đàm, có ông Đào Quốc Dũng - Vụ địa phương 3 Ban Tuyên giáo và Dân vận TW, ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 2, GS.TS. Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh UEH, ông Trần Phương Hồng - Phó Cục Trưởng Cục THADS TP HCM, TS. Sỹ Hồng Nam, Phó Chánh Văn phòng TAND TP HCM, ông Nguyễn Nhật Thanh - Giảng viên Trường ĐH Luật TP HCM.
Cùng tham dự Tọa đàm còn có đại diện có các TCTD, doanh nghiệp, chuyên gia pháp lý, các cơ quan báo chí - truyền thông...
![]() |
Các đại biểu tham dự Tọa đàm |
Phía nhà tài trợ Tọa đàm, có đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) có: ông Nguyễn Công Khoa - Phó Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ có vấn đề - Ngân hàng Agribank, Ông Vũ Việt Hưng - Phó trưởng Ban Pháp chế Ngân hàng Agribank; ông Đặng Văn Sang - Phó Trưởng Văn phòng Đại diện khu vực miền Nam Ngân hàng AgribankCông ty Cổ phần Tập đoàn MCV, Công ty Cổ phần Công nghệ Di Động Việt.
![]() |
Nhà báo Hà Ánh Bình - Phó Tổng biên tập Báo Pháp luật Việt Nam |
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Nhà báo Hà Ánh Bình - Phó Tổng biên tập Báo Pháp luật Việt Nam cho biết Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã từng là một bước đột phá lớn trong hoạt động xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Sau hơn 6 năm thực hiện, nghị quyết đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần khơi thông dòng vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên, sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào cuối năm 2023, hệ thống các tổ chức tín dụng đang đối mặt với nhiều khó khăn trong việc xử lý nợ xấu do thiếu cơ chế đặc thù. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần tiếp tục luật hóa những nội dung cốt lõi, hiệu quả của Nghị quyết 42 nhằm bảo đảm tính liên tục, ổn định và bền vững cho quá trình lành mạnh hóa thị trường tài chính – ngân hàng.
Phó tổng biên tập Hà Ánh Bình kỳ vọng tại Tọa đàm hôm nay, các đại biểu cùng chia sẻ những vướng mắc thực tiễn, cùng nhìn lại các bài học kinh nghiệm, và đặc biệt, cùng đề xuất các giải pháp, kiến nghị có giá trị để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tín dụng – tài chính.
Chia sẻ về thông tin về vấn đề xử lý nợ xấu, ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 2 cho hay: Việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo (TSBĐ) nợ vay để thu hồi nợ vẫn còn nhiều phát sinh tồn tại hạn chế, cũng như trách nhiệm của khách hàng trong vay và trả nợ ngân hàng… Đồng thời từ kết quả thực hiện thí điểm xử lý nợ xấu theo NQ 42 của Quốc hội- phản ánh sự cần thiết luật hóa một số nội dung của NQ nhằm tạo thuận cho quá trình xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, với yêu cầu cao về tốc độ tăng trưởng.
Với ý nghĩa đó, theo ông Lệnh, nhìn ở góc độ quản lý và đánh giá toàn diện, việc luật hóa nghị quyết 42 không chỉ tác động điều chỉnh trực tiếp đối với công tác xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ để thu hồi nợ mà còn mang lại những kết quả to lớn hơn, toàn diện hơn về thực hiện nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
“Cần luật hóa việc thu giữ tài sản bảo đảm, đây là tác động trực tiếp đến xử lý nợ xấu. Luật hóa vấn đề này là hành lang pháp lý thuận lợi, tiết giản chi phí thời gian, chi phí khác cho ngân hàng trong việc xử lý thu hồi xử lý nợ xấu. Tạo một chính sách trúng - đúng là nguồn lực cho kinh tế phát triển” ông Lệnh cho biết.
![]() |
GS.TS Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh - Đại học Kinh tế TP HCM |
Chia sẻ tại Tọa đàm, GS.TS Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh - Đại học Kinh tế TP HCM nói: "Trước những thách thức hiện tại và những kết quả tích cực đã đạt được trong giai đoạn thí điểm, việc luật hóa các quy định hiệu quả của Nghị quyết 42 là bước đi chiến lược và cần thiết để tạo lập một khuôn khổ pháp lý vững chắc, đồng bộ và ổn định cho công tác xử lý nợ xấu."
Tuy nhiên, GS.TS Võ Xuân Vinh cho rằng để luật hóa thực sự phát huy hiệu quả và bền vững, cần chú trọng đến việc xây dựng các quy định chi tiết, minh bạch, đảm bảo cân bằng hài hòa giữa quyền lợi của TCTD và người đi vay, đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Theo ông, xử lý nợ xấu không chỉ là nhiệm vụ của ngành ngân hàng mà là trách nhiệm chung của toàn hệ thống chính trị - pháp luật và cộng đồng doanh nghiệp, người dân, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền tài chính – tín dụng lành mạnh, minh bạch và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nước.
GS.TS Võ Xuân Vinh đề xuất, để bảo vệ tài sản một cách tốt nhất, minh bạch và công bằng, người dân và doanh nghiệp cần nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc vay và trả nợ, tuân thủ đầy đủ các cam kết trong hợp đồng tín dụng. Trước khi vay vốn, cần tìm hiểu kỹ về các điều khoản, lãi suất, phí và các quy định liên quan đến tài sản đảm bảo. Trong quá trình vay, cần chủ động theo dõi tình hình tài chính, có kế hoạch trả nợ rõ ràng và thông báo kịp thời cho tổ chức tín dụng nếu gặp khó khăn trong việc trả nợ để cùng tìm hướng giải quyết.
Về phía các cơ quan chức năng, theo GS Vinh, cần tăng cường công tác quản lý, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật trong hoạt động cho vay và xử lý nợ xấu. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tín dụng ngân hàng để nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ của mình. Đặc biệt, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực thi các quy định về thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo để ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực từ phía các tổ chức tín dụng. Cuối cùng, việc hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các tổ chức tín dụng đánh giá chính xác hơn rủi ro tín dụng và người dân, doanh nghiệp nâng cao ý thức về lịch sử tín dụng của mình.
Khẳng định Nghị quyết 42, Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 đã luật hóa một số quy định về nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm. Hành lang pháp lý này đã giúp việc xử lý nợ xấu diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương Hồng - Phó Cục Trưởng Cục Thi hành án Dân sự TP.HCM, điều này gây khó khăn lớn cho các TCTD trong việc thực thi quyền thu giữ tài sản bảo đảm, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng xoay vòng vốn cũng như tiếp cận tín dụng với chi phí hợp lý của người dân và doanh nghiệp, nhất là khi Nghị quyết 42 đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2024.
![]() |
Ông Trần Phương Hồng - Phó Cục Trưởng Cục Thi hành án Dân sự TP.HCM |
Ông cung cấp thông tin tới Tọa đàm: Luật các TCTD lần này, đề xuất ba nhóm chính sách với mục tiêu bảo đảm cân bằng giữa quyền lợi hợp pháp của TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ với các quyền hợp pháp của bên bảo đảm tài sản.
Một là, luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Theo đó, quy định rõ TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp tại hợp đồng bảo đảm đã có thỏa thuận về việc này. Đồng thời, việc thu giữ tài sản bảo đảm phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ tục theo quy định. Trong quá trình thu giữ, các TCTD không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Hai là, luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án. Theo đó, tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc trường hợp có sự đồng ý của TCTD.
Ba là, luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Theo đó, sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD.
Nhìn từ góc độ cơ quan tố tụng, TS. Sỹ Hồng Nam - Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu tác động đến nhiều đạo luật quan trọng như: Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Nhà ở, Luật Đất đai... Do đó, để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả của chế định này cần phải luật hóa việc xử lý nợ xấu của các TCTD thành đạo luật riêng hoặc trong Luật CTCTD.
![]() |
TS. Sỹ Hồng Nam - Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh |
“Điểm mới của Nghị quyết 42 tháo gỡ khó khăn cho tổ chức tín dụng, khuyến khích tổ chức, cá nhân mua nợ xấu, từng bước hình thành thị trường mua bán nợ. Nội dung này được quy định tại Điều 9: Bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu mà tài sản bảo đảm của khoản nợ đó là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai. Được quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua; Bên mua khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu mà tài sản bảo đảm của khoản nợ đó là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hoặc tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai được kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp.” ông Nam nói
Ông Nam cũng chia sẻ một số thông tin mà ông cho rằng còn nhiều mâu thuẫn liên quan đến vấn đề xử lý Nợ xấu:
Về đăng ký tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên mua nợ xấu: Nghị quyết 42 giao Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; đăng ký thay đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản bảo đảm của khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bộ Tài nguyên và Môi tường đã ban hành Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 nhưng hướng dẫn này không đầy đủ đã dẫn đến tổ chức, cá nhân mua bán nợ được đăng ký giao dịch bảo đảm kế thừa tổ chức tín dụng đã bán nợ xấu nên các cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thường từ chối với lý do chưa văn bản hướng dẫn. Điều này dẫn đến tranh chấp và rủi ro cho bên mua nợ, chưa khuyến khích các tổ chức, cá nhân mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Về xác định điều kiện để thu giữ tài sản đảm bảo: Điểm d khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là: “Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”. Do chưa có hướng dẫn cụ thể cũng như thực tiễn khi tổ chức tín dụng tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của bên đảm bảo thì chủ sở hữu tài sản bảo đảm tạo ra các tranh chấp và có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.
Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án phải thụ lý giải quyết tranh chấp khi tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Tòa án và người khởi kiện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; khi thụ lý vụ án ngoài đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án không có nghĩa vụ thông báo hay tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trong khi đó, giữa Tòa án với cơ quan Thi hành án cũng như cơ quan quản lý đất đai không có sự liên thông để cho phép kiểm tra, trích dẫn thông tin liên quan đến tài sản tranh chấp.
Theo ông Nam, hiện đang còn những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện thủ tục rút gọn như: Sau Nghị quyết 42, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng về thủ tục rút gọn, nhưng thực tế rất khó áp dụng thủ tục này. Tại TP HCM các tranh chấp liên quan đến tín dụng nói chung và tranh chấp có liên quan đến nợ xấu nói riêng rất lớn, nhưng đến nay chưa có vụ nào được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
(Tọa đàm đang tiếp tục với những tham luận khác từ phía TAND TP HCM, Cục THADS TP HCM, Trường đại học Luật TP HCM. Mời độc giả nhấn F5 để tiếp tục cập nhật thông tin)
theo Báo Pháp luật VN