Ảnh minh họa.
Cụ thể, Bộ Công an đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 17 xác nhận thông tin về cư trú của Thông tư số 55/2021/TT-BCA.
Theo đó, công dân yêu cầu xác nhận thông tin về cư trú có thể trực tiếp đến cơ quan đăng ký cư trú trong cả nước không phụ thuộc vào nơi cư trú của công dân để đề nghị cấp xác nhận thông tin về cư trú hoặc gửi yêu cầu xác nhận thông tin về cư trú qua Cổng dịch vụ công hoặc qua ứng dụng trên thiết bị điện tử.
Nội dung xác nhận thông tin về cư trú bao gồm thông tin cư trú, thời gian, địa điểm, hình thức đăng ký cư trú. Xác nhận thông tin về cư trú có giá trị 06 tháng kể từ ngày cấp đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Cư trú xác nhận về việc khai báo cư trú và có giá trị 01 năm kể từ ngày cấp đối với trường hợp xác nhận thông tin về cư trú.
Theo khoản 1 Điều 19 Luật Cư trú, nơi cư trú của người không có cả nơi thường trú và nơi tạm trú do không đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú là nơi ở hiện tại của người đó; trường hợp không có địa điểm chỗ ở cụ thể thì nơi ở hiện tại được xác định là đơn vị hành chính cấp xã nơi người đó đang thực tế sinh sống, Người không có nơi thường trú, nơi tạm trú phải khai báo thông tin về cư trú với cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại.
Trường hợp thông tin về cư trú của công dân có sự thay đổi, điều chỉnh và được cập nhật trong Cơ sở dữ liệu về cư trú thì xác nhận thông tin về cư trú hết giá trị kể từ thời điểm thay đổi.
Dự thảo Thông tư nêu rõ, xác nhận thông tin về cư trú được cấp cho cá nhân và hộ gia đình theo đề nghị của công dân. Trường hợp cấp xác nhận thông tin về cư trú cho hộ gia đình thì phải có ý kiến đồng ý của chủ hộ, trường hợp không thể lấy ý kiến đồng ý của chủ hộ thì phải có ý kiến đồng ý của các thành viên hộ gia đình.
Cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm xác nhận thông tin về cư trú ngay sau khi nhận được đề nghị xác nhận thông tin cư trú của công dân. Trường hợp nội dung cần xác nhận thông tin về cư trú không có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì thời hạn giải quyết không quá 03 ngày làm việc.
Cơ quan đăng ký cư trú, Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư có trách nhiệm xác nhận thông tin về cư trú dưới hình thức văn bản (có chữ ký và đóng dấu của Thủ trưởng cơ quan) hoặc văn bản điện tử (có chữ ký số của Thủ trưởng cơ quan) theo yêu cầu của công dân.
theo MAI HUỆ – Tạp chí luật sư VN