Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm: Vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị

Cập nhật: 24/03/2023 11:01

Hiện nay, thị trường bảo hiểm phát triển ngày càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển đó là tình trạng trục lợi bảo hiểm ngày càng tinh vi. Việc gian lận trong kinh doanh bảo hiểm vẫn đang là vấn đề nhức nhối, và là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Hành vi gian lận bảo hiểm có các hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, và xuất hiện trong bất kỳ khâu nào trong quy trình kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm từ khai thác, ký kết hợp đồng, giám định, giải quyết bồi thường và do nhiều đối tượng khác nhau thực hiện. Đặc biệt, trong 3 năm diễn ra dịch Covid-19 vừa qua, người dân đã có ý thức hơn về việc mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe. Số lượng người tham gia bảo hiểm tăng lên, số lượng người yêu cầu chi trả quyền lợi cũng tăng và trong số đó cũng phát sinh nhiều hành vi trục lợi bảo hiểm.

Ảnh minh họa.

1. Vấn đề về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm 

Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm thì kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Mục đích cơ bản của bảo hiểm là nhằm bảo đảm bù đắp những tổn thất do những rủi ro mà cá nhân hay tổ chức gặp phải, góp phần ổn định hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức đó. Tuy nhiên, trong thực tế đã có không ít cá nhân, tổ chức cố tình vi phạm những quy định trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích hưởng lợi không chính đáng. Hiện tượng trục lợi bảo hiểm hiện nay được diễn ra ở tất cả các lĩnh vực – nghiệp vụ bảo hiểm và cả lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Qua đó, một khoản tiền không nhỏ của doanh nghiệp bảo hiểm đã phải chi trả cho những hành vi trục lợi gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp lẫn khách hàng chân chính và còn tạo ra nhiều vấn nạn xã hội.

Trong mỗi lĩnh vực, mỗi loại hình nghiệp vụ bảo hiểm, hình thức trục lợi bảo hiểm là khác nhau. Không chỉ có người mua bảo hiểm tham gia trục lợi mà vụ việc có thể còn có sự thông đồng của nhân viên bảo hiểm. Nhân viên bảo hiểm thông đồng với khách hàng để ngụy tạo hồ sơ, đánh giá cao mức độ tổn thất hoặc lợi dụng các kẽ hở về giấy tờ, về thủ tục giám định… để chiếm đoạt tiền bảo hiểm hoặc gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm. Thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cho hay, đối với bảo hiểm phi nhân thọ, việc trục lợi chủ yếu xảy ra ở nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới; bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu; bảo hiểm cháy nổ; bảo hiểm tài sản và thiệt hại; bảo hiểm hàng hóa. Còn lĩnh vực nhân thọ, chủ yếu xảy ra ở nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe; bảo hiểm hỗn hợp và bảo hiểm trọn đời.

Đối tượng của hành vi gian lận có thể là người tham gia bảo hiểm, người thụ hưởng bảo hiểm, người thuê tài sản bảo hiểm, người được giao quản lý, sử dụng tài sản bảo hiểm hoặc chính là các cán bộ bảo hiểm nhân viên công ty bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, các cộng tác viên… Xét về ý thức, trục lợi bảo hiểm là hành vi được thực hiện có tính toán và mục đích rõ ràng, chủ ý đó được “lên phương án” từ trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm hoặc khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra.

Thực tế cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát hiện ra hành vi trục lợi bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm và khi có yêu cầu bồi thường của khách hàng. Ví dụ như các trường hợp trục lợi trong bảo hiểm sức khoẻ thường biểu hiện ở những hành vi sau: không khám chữa bệnh nhưng giả mạo chứng từ y tế để được hưởng tiền bảo hiểm; câu kết với cá nhân, bác sĩ, cơ sở khám chữa bệnh,… để phát hành chứng từ y tế không đúng với tình trạng bệnh tật thực tế…

2. Tội “Gian lận kinh doanh bảo hiểm”

Tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” là hành vi vi phạm các quy định về thụ hưởng bảo hiểm, hoạt động bảo hiểm nhằm mục đích chiếm đoạt tiền bảo hiểm hoặc gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý. Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành của Việt Nam không đề cập đến khái niệm hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm cụ thể. Tuy nhiên, tiếp thu những đề xuất khá cấp thiết từ Bộ Tài chính, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cùng cộng đồng doanh nghiệp bảo hiểm thì Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã hình sự hóa tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” tại Điều 213. Hành vi trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm như một tội danh có thể  phạt tiền, thậm chí là phạt tù. Tuy nhiên đến nay vẫn khó áp dụng trên thực tiễn.

2.1. Định nghĩa về gian lận bảo hiểm

Gian lận bảo hiểm là hành vi luôn tồn tại song hành với sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm. Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm là hành vi vi phạm các quy định về thụ hưởng bảo hiểm, hoạt động bảo hiểm nhằm mục đích chiếm đoạt tiền bảo hiểm hoặc gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý.

Do có bất cập trong quy định của hệ thống luật pháp hiện hành, hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề trục lợi bảo hiểm. Có quan điểm cho rằng chủ thể của hành vi trục lợi bảo hiểm chỉ là hành vi của khách hàng – bên mua bảo hiểm. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng hành vi trục lợi bảo hiểm là của cả hai bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên theo nội hàm của điều luật thì nó là hành vi của cả hai bên trong giao dịch bảo hiểm.

Trước khi có điều luật về tội danh trục lợi bảo hiểm, thì tình trạng trục lợi bảo hiểm diễn ra nhiều và có một bộ phận không nhỏ viên chức nhà nước không ngần ngại tiếp tay cho hành vi này. Tuy nhiên, kể từ khi tội danh này được hình sự hóa thì tình trạng tiếp tay vi phạm của khối viên chức nhà nước hầu như không còn mà đa phần chủ yếu đến từ hành vi của bên mua bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.

2.2. Các hành vi phạm tội của tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm

Tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” được quy định tại Điều 213 Bộ luật Hình sự 2015 có 4 dấu hiệu phạm tội. Cụ thể được nêu tại khoản 1 của điều luật này:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:

a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;

b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;

c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;

d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác”.

Đây là tội có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hậu quả thực tế, hành vi gian lận, giả mạo tài liệu…được người phạm tội hoàn thành và đã gian lận được tiền bảo hiểm.

3. Bất cập trong việc vận dụng điều luật hình sự về “gian lận bảo hiểm” hiện nay

Đáng chú ý, nước ta chưa có một văn bản pháp luật nào quy định rõ khái niệm về trục lợi bảo hiểm, các hành vi được coi là trục lợi bảo hiểm; nghĩa vụ của các đối tượng có liên quan trong quá trình thực hiện bảo hiểm nhằm phòng chống trục lợi bảo hiểm; các quy định các chế tài đối với các hành vi trục lợi bảo hiểm theo các mức độ xử phạt vi phạm hành chính…; quy định tiêu chuẩn ngành nghề đối với cán bộ giám định bồi thường bảo hiểm… Điều đó đã tạo điều kiện cho vấn đề trục lợi bảo hiểm phát triển. Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm khi nhận được đầy đủ hồ sơ, chứng từ thì trong vòng 15 ngày bên bán bảo hiểm phải giải quyết bồi thường, nếu từ chối bồi thường phải có văn bản và nêu rõ lý do. Có thể thất khoảng thời gian này là quá ngắn để doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác minh tính xác thực của hồ sơ yêu cầu bồi thường. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay chống trục lợi chỉ như hình thức tự vệ, chưa có hệ thống, bộ máy cũng như con người chuyên nghiệp, đặc biệt chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp.

Theo Phó Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, rất nhiều vụ việc đã được các công ty bảo hiểm phát hiện từ rất sớm nên không thực hiện chi trả nữa. Từ trước đến nay, các công ty bảo hiểm đã phát hiện ra nhiều vụ việc có dấu hiệu hoặc rõ ràng có hành vi trục lợi, gian lận. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp đó, công ty bảo hiểm chỉ từ chối chi trả. Trong đó, có rất nhiều vụ việc đã được các công ty bảo hiểm phát hiện từ rất sớm nên không thực hiện chi trả nữa. Một số ít trường hợp đã được công ty tố cáo tới cơ quan Công an, tuy nhiên, quy trình tố giác tội phạm khá phức tạp, mất thời gian và các công ty bảo hiểm phải chứng minh được hành vi gian lận của khách hàng nên rất ít vụ được đưa ra xử lý hình sự để làm hồi chuông cảnh tỉnh cho các khách hàng vì lòng tham mà cố tình thực hiện hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm.

Như vậy, vô hình chung hình thành tâm lý cho người trục lợi là nếu không thành công thì cũng không phải chịu bất cứ tội gì nên không có đủ sức răn đe.

Thực tế việc nhận biết những dấu hiệu bất thường nghi có trục lợi bảo hiểm là việc rất khó khăn khi khách hàng đã chủ động che dấu thông tin để tìm cách trục lợi bảo hiểm. Và đặc biệt trong điều kiện thị trường chưa có được cơ sở dữ liệu chung của khách hàng bảo hiểm, và việc chia sẻ các thông tin nhằm phòng chống trục lợi bảo hiểm còn hạn chế. Dấu hiệu bất thường phổ biến nhất là việc khách hàng tìm cách mua nhiều hợp đồng bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau và tìm cách che dấu thông tin này, hoặc mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với giá trị lớn, phí bảo hiểm đóng cao hơn nhiều so với mức phổ biến và thu nhập thực tế của khách hàng.

Liên quan tới vận dụng điều luật vào thực tiễn, ở các nước phát triển, việc áp dụng tội danh “trục lợi bảo hiểm” khi phát hiện hành vi vi phạm mà chỉ cần những biểu hiện khách quan của hành vi đó có yếu tố xâm hại đến lợi ích cộng đồng đang bảo vệ, thì đã có thể bị xem xét hình sự. Còn ở Việt Nam, cơ quan xây dựng luật có góc nhìn khác khi xem xét yếu tố “cấu thành vật chất”, tức là phải có hậu quả của hành vi thì mới xem xét hình sự.

Ví dụ: Khi khách hàng có ý định trục lợi bảo hiểm và đã thực hiện hành vi trục lợi bằng cách giả mạo các loại hồ sơ, giấy tờ và yêu cầu công ty bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm… Với những hành vi như vậy là đã cấu thành tội danh “trục lợi bảo hiểm”, việc có nhận được “quyền lợi” bảo hiểm hay không chỉ là tình tiết tăng nặng. Ở góc độ của công ty bảo hiểm, họ đã có đủ cơ sở để gửi hồ sơ đến cơ quan công an yêu cầu điều tra xem xét các hành vi vi phạm này. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành tại Điều 213, khách hàng thực hiện hành vi vi phạm như trên, nhưng phải có tình tiết là đã nhận được các lợi ích vật chất thì mới có thể xem xét là vi phạm luật hình sự về gian lận bảo hiểm. Nói cách khác, hành vi trên phải được thực hiện “thành công” thì mới có thể xem xét theo Điều 213, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Trên thực tế, khi phát hiện khách hàng có hành vi trục lợi bảo hiểm thì công ty bảo hiểm đã chủ động từ chối chi trả bảo hiểm, nên không thể cấu thành yếu tố “vật chất, lợi ích” như đã nêu ở trên ỏ điều luật. Hơn nữa, nếu một công ty bảo hiểm phát hiện ra khách hàng trục lợi bảo hiểm và muốn chuyển hồ sơ qua cho cơ quan điều tra để tiến hành khởi tố khách hàng đó thì buộc phải tiến hành chi trả quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng bình thường và phải có căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của khách hàng.

4. Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện 

4.1. Kiến nghị về thực tiễn thực hiện

Theo Bộ Tư pháp, số vụ khiếu nại trục lợi chiếm từ 6-28% tổng số vụ khiếu nại tùy thuộc từng doanh nghiệp bảo hiểm, tập trung tại các doanh nghiệp đứng đầu thị trường như Prudential, Bảo Việt Nhân thọ, Dai-ichi Life, AIA, ACE Life (nay là Chubb Life)…

Trong đó, bảo hiểm bổ trợ sức khỏe chiếm 93% số vụ trục lợi toàn thị trường; bảo hiểm hỗn hợp là 4%, bảo hiểm trọn đời là 1%…Các chuyên gia bảo hiểm nhận định rằng “trục lợi, gian lận bảo hiểm ở Việt Nam ngày càng “sâu”, phức tạp, tinh vi và gắn với bất kỳ khâu nào trong quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm.

Đấu tranh chống trục lợi bảo hiểm không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành bảo hiểm, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội; đòi hỏi có sự tham gia, ủng hộ tích cực của các cơ quan công quyền và mỗi người dân. Do vậy, để ngăn chặn, kiểm soát tình trạng trục lợi bảo hiểm, cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp.

Với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, bên cạnh việc tập trung công tác quản lý nội bộ ngành, cũng cần tăng cường công tác phối hợp với các bộ, ngành liên quan (Bộ Công an, Bộ Y tế…), tạo cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm tiếp cận, phối hợp trong việc giải quyết bồi thường bảo hiểm, chống trục lợi bảo hiểm.

Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cần tăng cường phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để từ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo hiểm trong cộng đồng, giúp các cơ quan chức năng tạo dư luận ủng hộ việc đấu tranh với những hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm, bởi không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm mà cả người tham gia đều là nạn nhân.

Bên cạnh đó, các đơn vị kinh doanh bảo hiểm cần phải có cơ chế liên thông, kết nối dữ liệu giữa bảo hiểm thương mại và bảo hiểm y tế để ngăn chặn tình trạng che giấu tình trạng sức khỏe, thuê người đi khám bệnh, giả mạo giấy tờ hồ sơ y tế, mua hồ sơ y tế,…

Việc làm trước tiên của các doanh nghiệp bảo hiểm là phải bảo đảm chặt chẽ từ khâu khai thác, bán hàng đến khâu bồi thường. Bên cạnh đó là công tác phối hợp thường xuyên với các cơ quan chức năng (như Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính; cơ quan Cảnh sát điều tra; Bộ Công an)… Có như vậy mới hy vọng hạn chế được những thiệt hại đáng tiếc xảy ra. Các trường hợp cố ý trục lợi bảo hiểm diễn ra rất đa dạng ở hầu hết các loại hình bảo hiểm. Việc đánh giá, phân biệt giữa thiệt hại do lỗi cố ý hay do lỗi vô ý, do ngẫu nhiên hay do sắp đặt, trung thực hay giả mạo trong từng vụ việc bảo hiểm cụ thể đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có các cán bộ có chuyên môn cao, thẩm định khách quan trước khi ký hợp đồng bảo hiểm và sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Ngoài ra, cơ quan bảo hiểm cần phối hợp tốt với các cơ quan chức năng như cơ quan điều tra, y tế, giám định, kiểm định để xác định rõ nguyên nhân, đánh giá chính xác hậu quả thiệt hại thực tế của từng hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Việc làm này vừa đảm bảo được quyền lợi hợp pháp cho khách hàng tham gia bảo hiểm, vừa loại bỏ được những trường hợp trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại về kinh tế cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.

Đặc biệt, vai trò của từng doanh nghiệp bảo hiểm là rất quan trọng. Chỉ có một hệ thống quản trị tốt, chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm, doanh nghiệp mới có thể hạn chế vấn nạn trục lợi bảo hiểm ngay tại chính đơn vị mình. Khi có dấu hiệu gian lận trục lợi bảo hiểm cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng trong việc thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp vì sự phát triển chung của cộng đồng cũng như sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm.

Các công ty cần tăng cường các chương trình tuyên truyền, nâng cao nhận thức của khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia bảo hiểm, đặc biệt là nghĩa vụ kê khai trung thực, các hậu quả pháp lý của việc tham gia, tiếp tay cho các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm…..

4.2. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật

Có nhiều ý kiến cho rằng quy định xử lý hiện nay chưa đủ sức răn đe khiến cho tình hình trục lợi bảo hiểm ngày càng diễn biến phức tạp. Trước thực trạng này, trước tiên cơ quan chức năng cần có những biện pháp khắc phục và chế tài xử lý hành chính trong trường hợp người mua bảo hiểm có hành vi gian dối, khai báo không đúng sự thật. Trường hợp đã bị xử phạt hành chính và yêu cầu khắc phục hậu quả nhưng vẫn tiếp tục tái phạm   hoặc hành vi đã gây ra hậu quả thì áp dụng các quy định của pháp luật luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Việc đặt tên Điều luật 213 là “gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” chưa phản ánh đầy đủ tinh thần của điều luật. Do đó, cần làm rõ hai khái niệm “gian lận” và “trục lợi” để có tác dụng tốt hơn trong việc đấu tranh, răn đe và phòng ngừa chung trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Từ đó sẽ có được cách hiểu thống nhất để các cơ quan chức năng áp dụng khi xử lý các vụ việc liên quan tới hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm.

Bên cạnh đó cơ quan có thẩm quyền cũng nên có văn bản phân biệt tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm với các tội danh khác có liên quan được nhắc đến trong Điều luật như tội “Tham ô tài sản” (Điều 353), tội “Lạm dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản” (Điều 355), tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174).

Quy định tại Điều 213, Bộ luật Hình sự chưa đủ sức răn đe bởi hành vi phạm tội chỉ cấu thành khi người thực hiện hành vi đã nhận được tiền từ các công ty bảo hiểm. Do đó có nhiều điểm cần phải thay đổi. Song việc cơ quan luật pháp đã xây dựng tội danh gian lận bảo hiểm theo hướng “cấu thành vật chất” thì nên thay đổi từ chính hướng đi này. Chẳng hạn, cần xác định tội danh gian lận bảo hiểm là tội danh “cấu thành hình thức”. Ngay từ những hành vi vi phạm ban đầu như làm giả hồ sơ, giấy tờ…, đã cấu thành tội phạm, còn số tiền thu được hoặc gây thiệt hại từ hành vi trục lợi là yếu tố tăng nặng. Điều này vừa giúp quy định luật pháp dễ áp dụng trên thực tiễn hơn, vừa đảm bảo tăng tính răn đe và phòng ngừa, tăng tính minh bạch cho thị trường bảo hiểm.

Đối với các cơ quan nhà nước khác có liên quan như Bộ Tư pháp, Bộ Công an cần nghiên cứu, xem xét, bổ sung, chi tiết hóa các hành vi trục lợi bảo hiểm trong các văn bản pháp luật liên quan để nâng cao tính răn đe trong việc thực thi pháp luật, cần có quy định luật pháp với chế tài mạnh mẽ hơn; phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc triển khai thực hiện pháp luật kinh doanh bảo hiểm và giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm.

Ngoài ra, cũng cần có sự điều chỉnh trong các quy định của Bộ Luật hình sự để có đủ sức răn đe hơn. Cụ thể, Quốc hội cần điều chỉnh lại điều luật quy định về tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm, cụ thể nên tách ra làm các khoản khác nhau tương ứng với các mức hình phạt khác nhau của hai đối tượng chủ thể bên bán và bên mua, bên thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đối với hành vi gian lận của bên mua, bên thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm cần có chế tài nghiêm khắc hơn so với hành vi của bên kinh doanh bảo hiểm.

Từ những phân tích và số liệu nêu trên, để ngăn chặn và phòng ngừa các hành vi gian lận trong kinh doanh bảo hiểm chúng ta cần xem xét và sửa đổi Điều 213 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm”. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cần có hướng dẫn kịp thời. Tòa án nhân dân Tối cao cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về quy định dành cho pháp nhân thương mại trong tội “Gian lận kinh doanh bảo hiểm”. Trong Dự thảo số 1, Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 213 về tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” mới chỉ hướng dẫn điểm a, b của khoản 1 nói về cá nhân “người nào” chứ chưa có đề cập đến “pháp nhân”. Trong khi các chế tài hành chính, chế tài dân sự chưa đủ để răn đe và xử lý hành vi trục lợi bảo hiểm đang gia tăng thì hy vọng việc bổ sung chế tài hình sự như thế này sẽ nâng cao tính răn đe của pháp luật, ngăn ngừa, phòng chống việc gian lận trong kinh doanh bảo hiểm.

Đối với trường hợp phân biệt tội phạm gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế với hành vi gian lận trong kinh doanh bảo hiểm, cần đựa vào lĩnh vực cụ thể đã được quy định thành tội phạm độc lập. Tuy đều có hành vi gian lận, đều có hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng nếu thuộc các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế thì không thuộc tội danh gian lận trong kinh doanh bảo hiểm.

Trường hợp khi hành vi gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà có việc làm và sử dụng tài liệu giả, con dấu giả của các cơ quan tổ chức để từ đó chiếm đoạt tài sản thì cần phải hướng dẫn thống nhất coi đây là trường hợp phạm 02 tội. Người phạm tội không chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” theo Điều 213 mà còn bị truy cứu thêm về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định của Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ngày 25/6/2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực từ ngày 01/9/2019 hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội “Gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp”, Điều 215 về tội “Gian lận bảo hiểm y tế” và Điều 216 về tội “Trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động” mà chưa có hướng dẫn áp dụng Điều 213 về tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” mặc dù trước đó trong dự thảo có bao gồm cả Điều 213 vì cũng thuộc nhóm tội liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm. Vì vậy cần có hướng dẫn cụ thể về nội dung của tội “Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm” để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý trách nhiệm hình sự các hành vi vi phạm, phần nào đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn và công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm.

theo Thạc sĩ TRẦN THỊ THU – Tạp chí luật sư VN

https://lsvn.vn/gian-lan-trong-kinh-doanh-bao-hiem-vuong-mac-bat-cap-va-de-xuat-kien-nghi1679498919.html

Tin liên quan