Giới hạn của quyền tự do ngôn luận và việc xử lý hành vi lạm dụng quyền theo pháp luật

Cập nhật: 26/12/2025 21:07

3164

   

Trong xã hội hiện đại, đặc biệt dưới tác động của internet và mạng xã hội, quyền tự do ngôn luận ngày càng được thực hiện rộng rãi và trở thành điều kiện quan trọng để thúc đẩy minh bạch, tham gia xã hội và phản biện chính sách. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đặt ra thách thức đáng kể khi một bộ phận chủ thể nhân danh tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai lệch, xúc phạm danh dự – nhân phẩm, bôi nhọ uy tín tổ chức, kích động thù hằn, chia rẽ cộng đồng hoặc gây phương hại đến lợi ích công cộng và an ninh quốc gia.

Trong bối cảnh đó, việc xác định đúng giới hạn pháp lý của quyền tự do ngôn luận và làm rõ cơ sở chính đáng của các biện pháp xử lý bao gồm cả xử lý hình sự hành vi lạm dụng quyền là yêu cầu có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Bài viết tiếp cận vấn đề trên cơ sở đối chiếu chuẩn mực của luật nhân quyền quốc tế với pháp luật Việt Nam, qua đó góp phần minh định ranh giới giữa biểu đạt hợp pháp được bảo vệ và hành vi vi phạm pháp luật cần bị ngăn chặn, xử lý nhằm bảo đảm trật tự pháp quyền và sự cân bằng giữa quyền tự do cá nhân với lợi ích chung.

1. Đặt vấn đề

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền con người cơ bản, được ghi nhận trong Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền năm 1948 và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Quyền này giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội dân chủ, tạo điều kiện để cá nhân bày tỏ quan điểm, tham gia thảo luận công khai, phản biện xã hội và giám sát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, theo các chuẩn mực của luật nhân quyền quốc tế cũng như pháp luật quốc gia, quyền tự do ngôn luận không mang tính tuyệt đối, mà có thể bị đặt ra những giới hạn cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và an ninh quốc gia.

Trong bối cảnh internet và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, quyền tự do ngôn luận được thực hiện ngày càng rộng rãi và đa dạng về hình thức, góp phần thúc đẩy dân chủ, minh bạch và sự tham gia của công dân vào đời sống xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy sự gia tăng của các hành vi nhân danh hoặc lạm dụng quyền tự do ngôn luận để xuyên tạc sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, bôi nhọ uy tín của tổ chức, kích động thù hằn dân tộc, chia rẽ xã hội hoặc phương hại đến lợi ích công cộng và an ninh quốc gia. Những hành vi này không chỉ xâm phạm trực tiếp quyền con người của người khác mà còn gây tổn hại đến khối đại đoàn kết dân tộc, trật tự xã hội và nền tảng của Nhà nước pháp quyền.

Trước thực tiễn đó, vấn đề đặt ra không phải là phủ nhận hay hạn chế quyền tự do ngôn luận một cách tùy tiện, mà là xác định đúng giới hạn pháp lý của quyền này, đồng thời làm rõ sự cần thiết và tính chính đáng của việc xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng quyền trong một Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trên cơ sở đó, bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận và pháp lý về giới hạn của quyền tự do ngôn luận; làm rõ các hành vi bị coi là lạm dụng quyền khi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và lợi ích chung; đồng thời luận giải tính cần thiết và tính chính đáng của việc xử lý các hành vi này theo pháp luật Việt Nam, trong sự tương thích với các chuẩn mực của luật nhân quyền quốc tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Quyền tự do ngôn luận theo Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền năm 1948 (UDHR)

Theo Điều 19 của Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ban hành năm 1948 (UDHR), mọi người đều có quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt. Quyền này là nền tảng để con người bày tỏ suy nghĩ, bảo vệ lợi ích chính đáng và tham gia vào các vấn đề chung của xã hội.

Tuy nhiên, ngay trong chính Tuyên ngôn, quyền này không được thiết kế như một quyền tuyệt đối, mà luôn gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm và những giới hạn rõ ràng.

Điều 29 của Tuyên ngôn khẳng định rằng mỗi cá nhân đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, bởi chính trong cộng đồng đó nhân cách con người mới có điều kiện được phát triển một cách tự do và đầy đủ. Trên cơ sở đó, Tuyên ngôn quy định rõ: khi hành xử các quyền và tự do của mình, mỗi cá nhân phải chấp nhận những giới hạn do pháp luật đặt ra, nhằm bảo đảm quyền và tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, đồng thời đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ.

Đặc biệt, khoản 3 Điều 29 nhấn mạnh một nguyên tắc mang tính cốt lõi của luật nhân quyền hiện đại, đó là: trong mọi trường hợp, các quyền và tự do không thể được hành xử trái với các mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hợp Quốc. Quy định này cho thấy Tuyên ngôn chủ động loại trừ và không bảo vệ mọi hành vi lợi dụng quyền con người để xâm phạm hòa bình, kích động thù hằn, chia rẽ cộng đồng, hạ thấp phẩm giá con người hoặc xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Bổ sung cho Điều 29, Điều 30 của Tuyên ngôn tiếp tục khẳng định rằng không một quy định nào trong Tuyên ngôn có thể được diễn giải theo hướng cho phép bất kỳ cá nhân, tổ chức hay quốc gia nào được quyền tiến hành những hoạt động hoặc thực hiện những hành vi nhằm hủy bỏ các quyền và tự do đã được ghi nhận. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn triệt để quan điểm sai lầm coi việc lạm dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm người khác là một hình thức thực hiện quyền hợp pháp.

Như vậy, xét một cách hệ thống, chính Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền đã đặt ra những giới hạn nội tại và nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do, trong đó có quyền tự do ngôn luận, để đi ngược lại lợi ích của cộng đồng, xâm phạm quyền con người khác hoặc trái với các giá trị nhân quyền phổ quát mà Liên Hợp Quốc theo đuổi.

3. Quyền tự do ngôn luận trong Hiến pháp Việt Nam

Quyền tự do ngôn luận của công dân được ghi nhận trực tiếp tại Điều 25 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, theo đó: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Quy định này khẳng định quyền tự do ngôn luận là một quyền hiến định quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để công dân bày tỏ ý kiến, phản ánh nguyện vọng và tham gia vào đời sống chính trị – xã hội. Tuy nhiên, ngay trong chính điều khoản này, Hiến pháp đã xác định rõ việc thực hiện quyền phải tuân theo quy định của pháp luật, qua đó loại trừ cách hiểu coi tự do ngôn luận là quyền tuyệt đối, không có giới hạn.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục đặt ra nguyên tắc giới hạn quyền con người, quyền công dân:“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Sự kết hợp giữa Điều 25 và khoản 2 Điều 14 cho thấy cách tiếp cận nhất quán của Hiến pháp Việt Nam: quyền tự do ngôn luận được bảo đảm, nhưng không thể bị lợi dụng để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, gây phương hại đến trật tự xã hội và lợi ích chung, xâm phạm an ninh quốc gia. Đây là cơ sở hiến định quan trọng cho việc xử lý các hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

4. Lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích chung và an ninh quốc gia – hành vi vi phạm pháp luật

Quyền tự do ngôn luận là một quyền hiến định, được ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, quyền này không mang tính tuyệt đối. Việc lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân; vu khống, bịa đặt thông tin; bôi nhọ, làm suy giảm uy tín của tổ chức; kích động thù hằn, chia rẽ xã hội hoặc phương hại đến an ninh quốc gia không còn là sự thực hiện hợp pháp quyền tự do ngôn luận, mà đã trở thành hành vi xâm phạm trực tiếp quyền con người của người khác và các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Những hành vi này bị loại trừ khỏi phạm vi bảo vệ của quyền tự do ngôn luận theo cả luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Trách nhiệm pháp lý theo pháp luật dân sự đối với hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận

Dưới góc độ pháp luật dân sự, Bộ luật Dân sự năm 2015 khẳng định danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân, tổ chức là quyền nhân thân bất khả xâm phạm. Theo Điều 34 Bộ luật Dân sự năm 2015, mọi hành vi đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm hoặc bôi nhọ làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức đều làm phát sinh trách nhiệm dân sự. Người vi phạm có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Cơ chế trách nhiệm dân sự trong trường hợp này nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại và bảo đảm sự tôn trọng nhân phẩm con người trong đời sống xã hội.

Trách nhiệm hình sự đối với hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

Trong trường hợp hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận gây hậu quả nghiêm trọng, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể, Điều 155 quy định về tội làm nhục người khác, áp dụng đối với các hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của cá nhân thông qua lời nói, hình ảnh, bài viết, kể cả trên không gian mạng. Điều 156 quy định về tội vu khống, áp dụng đối với hành vi bịa đặt, loan truyền thông tin biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Trách nhiệm hình sự đối với hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm lợi ích chung, trật tự xã hội và khối đại đoàn kết dân tộc - Điều 331 Bộ luật Hình sự

Trong trường hợp hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận không chỉ xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cụ thể mà còn gây phương hại đến lợi ích chung, trật tự, an toàn xã hội và khối đại đoàn kết dân tộc, người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Theo quy định này, các hành vi nhân danh quyền tự do ngôn luận để xuyên tạc sự thật; xúc phạm, bôi nhọ danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức; gây hoang mang dư luận; làm suy giảm niềm tin xã hội; kích động chia rẽ cộng đồng hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có thể bị xử lý hình sự khi đạt đến mức độ nguy hiểm cho xã hội theo quy định của pháp luật. Điều 331 được áp dụng trong những trường hợp hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhưng đã gây tác động tiêu cực nghiêm trọng đối với trật tự, an toàn và ổn định xã hội.

Trách nhiệm hình sự đối với hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm an ninh quốc gia – Điều 117 Bộ luật Hình sự

Trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận không chỉ dừng lại ở việc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc lợi ích chung, mà còn có thể chuyển hóa thành hành vi xâm phạm an ninh quốc gia. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tại Điều 117 về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Điều luật này điều chỉnh các hành vi có chủ đích sử dụng thông tin, tài liệu, bao gồm cả các hình thức ngôn luận và biểu đạt trên không gian mạng, như một công cụ để chống phá Nhà nước, phương hại đến trật tự hiến định và an ninh quốc gia.

Về mặt pháp lý, cần phân biệt rõ giữa việc bày tỏ quan điểm, phản biện xã hội ôn hòa – thuộc phạm vi được bảo vệ của quyền tự do ngôn luận – với các hành vi sử dụng ngôn luận một cách có tổ chức, có hệ thống, mang mục đích chống Nhà nước và gây nguy hiểm cho xã hội. Việc áp dụng Điều 117 chỉ đặt ra khi có đủ căn cứ chứng minh yếu tố “nhằm chống Nhà nước” và mức độ nguy hiểm cho an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật, đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc tố tụng, bảo đảm quyền bào chữa và xét xử công bằng.

Lợi dụng quyền tự do ngôn luận trong môi trường số

Trong bối cảnh mạng xã hội và không gian mạng phát triển mạnh mẽ, quyền tự do ngôn luận được mở rộng về phạm vi và hình thức thực hiện, đồng thời làm gia tăng nguy cơ lạm dụng quyền này để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và phương hại đến trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc gia. Trước thực tiễn đó, Luật An ninh mạng năm 2018 được ban hành nhằm thiết lập khuôn khổ pháp lý điều chỉnh việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trong môi trường số.

Theo quy định của Luật An ninh mạng, các hành vi lợi dụng không gian mạng để đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức hoặc phát tán thông tin có nội dung chống phá, kích động thù hằn, gây mất ổn định xã hội đều bị nghiêm cấm. Tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi vi phạm, người vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, buộc gỡ bỏ nội dung vi phạm hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

5. Sự cần thiết và tính chính đáng của việc xử lý hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận theo pháp luật

Từ góc độ pháp lý, có thể khẳng định rằng pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có sự thống nhất cao trong việc không thừa nhận và kiên quyết loại trừ khỏi phạm vi bảo vệ của quyền tự do ngôn luận các hành vi lợi dụng quyền này để xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, xâm hại uy tín của tổ chức, kích động thù hằn, chia rẽ xã hội hoặc xâm phạm lợi ích công cộng và an ninh quốc gia. Việc xử lý các hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận vì vậy không phải là sự phủ nhận hay hạn chế quyền một cách tùy tiện, mà là yêu cầu tất yếu nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác cũng mang tính nền tảng của xã hội.

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền con người cơ bản, giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội dân chủ và Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, theo các chuẩn mực của luật nhân quyền quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam, quyền này không mang tính tuyệt đối, mà luôn gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội. Việc đặt ra các giới hạn pháp lý đối với quyền tự do ngôn luận nhằm bảo đảm rằng việc thực hiện quyền của một chủ thể không trở thành công cụ xâm hại quyền con người của chủ thể khác hoặc phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng.

Sự cần thiết của việc xử lý hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận trước hết thể hiện ở yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Các hành vi đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm, bôi nhọ hoặc quy kết thiếu căn cứ có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân và uy tín, khả năng hoạt động bình thường của tổ chức. Trong bối cảnh không gian mạng phát triển mạnh mẽ, những hành vi này có thể lan truyền nhanh chóng, gây hoang mang dư luận, làm suy yếu môi trường ngôn luận lành mạnh và đe dọa trật tự, an toàn xã hội.

Ở mức độ nghiêm trọng hơn, việc lợi dụng quyền tự do ngôn luận có thể chuyển hóa thành hành vi xâm phạm lợi ích công cộng và an ninh quốc gia. Khi ngôn luận bị sử dụng có chủ đích, mang tính hệ thống nhằm xuyên tạc sự thật, gây chia rẽ xã hội hoặc phương hại đến trật tự hiến định, việc áp dụng các biện pháp xử lý pháp lý, kể cả trách nhiệm hình sự, là yêu cầu cần thiết để bảo vệ nền tảng pháp lý và chính trị của Nhà nước. Dưới góc độ luật nhân quyền quốc tế, các hạn chế và chế tài trong những trường hợp này không mâu thuẫn với quyền tự do ngôn luận, mà là biện pháp chính đáng nhằm bảo vệ quyền con người của đa số và lợi ích chung của xã hội.

Về tính chính đáng, pháp luật Việt Nam đã thiết lập cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xử lý hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền tự do ngôn luận, đồng thời cho phép đặt ra những hạn chế cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và các lợi ích chính đáng khác. Các quy định của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự và Luật An ninh mạng đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định này, bảo đảm việc xử lý được thực hiện trên nền tảng luật định, minh bạch và thống nhất.

Cách tiếp cận trên hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền, đặc biệt là các quy định tại Điều 29 và Điều 30, theo đó quyền con người luôn gắn liền với nghĩa vụ và không được sử dụng để xâm phạm quyền của người khác hoặc đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng. Do đó, việc xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận là biện pháp cần thiết và chính đáng nhằm bảo vệ quyền con người một cách cân bằng, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố đoàn kết cộng đồng và bảo đảm an ninh quốc gia trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam

6. Thực tiễn áp dụng Điều 331 và Điều 117 Bộ luật Hình sự trong xử lý hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận

Trong nghiên cứu về giới hạn của quyền tự do ngôn luận, việc liên hệ với thực tiễn áp dụng pháp luật có ý nghĩa quan trọng nhằm làm rõ ranh giới giữa biểu đạt hợp pháp được pháp luật bảo vệ và hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận bị xử lý theo quy định pháp luật. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử một số vụ án liên quan đến hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận theo các quy định của Bộ luật Hình sự, đặc biệt là Điều 331 và Điều 117.

Các vụ việc này không xuất phát từ việc cá nhân đơn thuần bày tỏ quan điểm, phản biện xã hội hoặc đưa tin một cách ôn hòa, mà từ những hành vi bị cho là sử dụng ngôn luận và thông tin như một công cụ có chủ đích, mang tính lặp lại hoặc có hệ thống, gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích chung của xã hội hoặc nghiêm trọng hơn là xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự hiến định. Việc xử lý các hành vi này góp phần làm rõ rằng quyền tự do ngôn luận không bao hàm quyền xâm hại các lợi ích được pháp luật bảo vệ.

Từ góc độ học thuật, thực tiễn áp dụng Điều 331 và Điều 117 đặt ra yêu cầu phân biệt rạch ròi giữa hai nhóm hành vi: (i) việc thực hiện quyền tự do ngôn luận dưới các hình thức bày tỏ ý kiến, phản biện xã hội, trao đổi thông tin một cách hòa bình, có trách nhiệm – thuộc phạm vi được pháp luật bảo vệ; và (ii) các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xuyên tạc sự thật, kích động thù hằn, gây chia rẽ xã hội, làm suy giảm niềm tin xã hội hoặc xâm phạm nghiêm trọng lợi ích công cộng và an ninh quốc gia – thuộc phạm vi bị loại trừ khỏi sự bảo vệ của quyền này. Việc phân định rõ ranh giới đó có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm thực thi quyền tự do ngôn luận một cách đúng đắn, đồng thời giữ gìn trật tự pháp quyền và ổn định xã hội.

Theo các chuẩn mực của luật nhân quyền quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, quyền tự do ngôn luận có thể bị đặt ra những hạn chế do luật định nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, quyền và uy tín của người khác, với điều kiện các hạn chế đó là cần thiết và chính đáng. Dưới góc độ này, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các hành vi bị cho là vượt quá phạm vi biểu đạt ôn hòa, khi có đủ căn cứ pháp lý chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm theo luật định, không mâu thuẫn với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.

Thực tiễn cho thấy, việc xử lý các vụ án liên quan đến hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận theo Điều 331 và Điều 117 trong thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng tình và ủng hộ nhất định trong xã hội, đặc biệt trong bối cảnh thông tin sai lệch, xuyên tạc và kích động trên không gian mạng có xu hướng gia tăng và gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực. Các vụ việc này không chỉ mang ý nghĩa xử lý cá biệt đối với người vi phạm, mà còn có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung, nâng cao nhận thức xã hội về trách nhiệm pháp lý gắn liền với việc thực hiện quyền tự do ngôn luận.

Từ thực tiễn đó có thể rút ra nhận định rằng, quyền tự do ngôn luận chỉ được bảo đảm và bảo vệ đầy đủ khi được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và gắn liền với trách nhiệm xã hội. Khi ngôn luận bị lợi dụng như một công cụ gây phương hại nghiêm trọng đến lợi ích chung hoặc an ninh quốc gia, việc áp dụng các biện pháp pháp lý, kể cả biện pháp hình sự, là yêu cầu khách quan và cần thiết nhằm bảo vệ trật tự pháp quyền, các giá trị nền tảng của xã hội và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền tự do cá nhân và lợi ích chung trong Nhà nước pháp quyền.

7. Kết luận

Quyền tự do ngôn luận là một quyền con người cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống xã hội dân chủ và trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Quyền này góp phần bảo đảm sự tham gia của cá nhân vào đời sống xã hội, thúc đẩy phản biện, minh bạch và giám sát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, cả luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam đều khẳng định rằng quyền tự do ngôn luận không mang tính tuyệt đối, mà phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và gắn liền với trách nhiệm xã hội.

Nghiên cứu cho thấy pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có sự thống nhất cơ bản trong việc không bảo vệ các hình thức ngôn luận xâm phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, xâm hại uy tín của tổ chức, kích động thù hằn, chia rẽ xã hội hoặc gây phương hại đến lợi ích công cộng và an ninh quốc gia. Việc đặt ra các giới hạn và chế tài đối với những hành vi này không mâu thuẫn với tinh thần bảo vệ quyền con người, mà nhằm bảo đảm sự cân bằng cần thiết giữa quyền tự do cá nhân và lợi ích chung của xã hội.

Từ đó có thể khẳng định rằng, việc xử lý hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận theo pháp luật là yêu cầu khách quan của Nhà nước pháp quyền. Tự do ngôn luận chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện một cách có trách nhiệm, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, qua đó góp phần giữ gìn trật tự xã hội, củng cố đoàn kết cộng đồng và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của xã hội.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 (UDHR);

2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014;

3. Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017;

4. Bộ luật Hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018;

5. Luật An ninh mạng năm 2018 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019;

6. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3 năm 1976;

7. Bình luận chung số 34 (năm 2011) của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc được ban hành nhằm giải thích nội dung và phạm vi áp dụng của Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị liên quan đến quyền tự do quan điểm và biểu đạt;

theo PV - Tạp chí luật sư VN

https://lsvn.vn/gioi-han-cua-quyen-tu-do-ngon-luan-va-viec-xu-ly-hanh-vi-lam-dung-quyen-theo-phap-luat-a167591.html

Tin liên quan

Hải Phòng tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Cả nước có 182 đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Bài học trong sử dụng AI - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Kiên trì, kỷ luật và thực chất - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Nhiệm vụ và quyền hạn mới của Sở Tư pháp về xây dựng pháp luật - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Khẩn trương tháo gỡ vướng mắc, nâng cao hiệu quả hoạt động chính quyền địa phương 02 cấp - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XV Hoàn thiện thể chế cho giai đoạn phát triển mới - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Kế hoạch thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Hôm nay bế mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Hôm nay Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua nhiều nội dung quan trọng - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Tòa án các cấp duy trì kỷ cương, tinh gọn bộ máy, xét xử nghiêm minh - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Hà Nội điều động cán bộ về xã, phường, gỡ vướng trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Nâng cao năng lực phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong ngành Y - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Quốc hội thảo luận các nội dung chương trình mục tiêu quốc gia - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Dự án Luật Trí tuệ nhân tạo: Quy định cụ thể hơn về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Sẽ có mô tả chi tiết vị trí việc làm công chức, chỉ dùng người đủ năng lực - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Lý luận và thực tiễn của việc ‘không chất vấn hội trường’ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Tăng cường thanh, kiểm tra hoạt động Văn phòng Thừa phát lại - Cập nhật: 26/02/2025 09:38
Đề xuất chuyển 8 loại giao dịch phải công chứng, chứng thực sang công chứng, chứng thực tự nguyện, theo yêu cầu - Cập nhật: 26/02/2025 09:38