Mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH, CN&ĐMST) đã trở thành động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia và đảm bảo phát triển bền vững. Nhiều quốc gia đã coi phát triển KH, CN&ĐMST là "quốc sách hàng đầu", là "chìa khóa" để vươn lên mạnh mẽ trong chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó khẳng định vị thế và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên phạm vi quốc tế.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của KH, CN&ĐMST đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, mặc dù đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng được ban hành, hệ sinh thái KH, CN&ĐMST vẫn còn gặp nhiều rào cản về thể chế, pháp luật. Các vướng mắc chủ yếu tập trung ở những vấn đề như cơ chế quản lý hành chính phức tạp, chồng chéo, thiếu đồng bộ; chính sách tài chính, thuế, đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp khoa học công nghệ chưa thực sự khuyến khích đổi mới sáng tạo; cơ chế phân bổ và sử dụng nguồn lực nghiên cứu chưa phù hợp với thực tiễn thị trường.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết xác định phát triển KH, CN&ĐMST và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Để cụ thể hóa các chủ trương, định hướng lớn của Đảng, Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15 ngày 27/06/2025, có hiệu lực từ 01/10/2025. Luật nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, khuyến khích và thúc đẩy đổi mới sáng tạo toàn diện trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Bài viết này tập trung phân tích những điểm mới nổi bật của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, đánh giá tác động dự kiến đối với sự phát triển KH, CN&ĐMST ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra những thách thức trong quá trình thực thi và đề xuất kiến nghị nhằm hiện thực hóa các mục tiêu mà Luật đặt ra.
1. Tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển đất nước
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH, CN&ĐMST) đã trở thành động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, phát triển năng lực cạnh tranh quốc gia và bảo đảm phát triển bền vững.
Thực tiễn phát triển của các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao như Hàn Quốc, Israel, Singapore hay các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc đã chứng minh: KH, CN&ĐMST chính là "chìa khóa" để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, thoát khỏi phụ thuộc vào tài nguyên, lao động giá rẻ, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Các quốc gia đầu tư mạnh mẽ vào KH, CN&ĐMST đều đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghệ cao và dịch vụ dựa trên tri thức vào GDP của Israel đạt trên 50%; Hàn Quốc dành hơn 4,8% GDP cho nghiên cứu và phát triển (R&D); Singapore đạt 2,6%; trong khi mức trung bình toàn cầu là khoảng 2,5%.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã nhiều lần nhấn mạnh vai trò chiến lược của KH, CN&ĐMST trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gần đây nhất, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định rõ: "Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới."
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển KH, CN&ĐMST ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển. Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 0,5–0,6% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình thế giới. Theo Báo cáo đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), Việt Nam năm 2023 xếp hạng 46/132 quốc gia, tuy được đánh giá cao về chỉ số đổi mới sáng tạo đầu vào (như trình độ học vấn, chi phí R&D) nhưng điểm số về kết quả đầu ra (số bằng sáng chế, công bố quốc tế, thương mại hóa công nghệ) còn ở mức thấp.
Thực tiễn tại Hà Nội – địa phương đầu tàu về phát triển KH, CN&ĐMST – cũng cho thấy bức tranh tương tự. Tỷ trọng đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP của Hà Nội giai đoạn 2021–2024 đạt trung bình khoảng 51%, dự kiến năm 2025 đạt khoảng 55%. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân chỉ đạt khoảng 4,8%/năm, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 7–7,5% đã đề ra.
Những con số trên không chỉ phản ánh khoảng cách giữa định hướng và thực tiễn, mà còn đặt ra yêu cầu cấp bách về việc hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế chính sách phát triển KH, CN&ĐMST ở Việt Nam.
2. Những rào cản pháp lý trong phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trước khi ban hành Luật
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH, CN&ĐMST), tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy hệ thống pháp luật trước đây vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, trở thành những "nút thắt" kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực này.
2.1. Rào cản về sở hữu trí tuệ và phân chia lợi ích
Hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) và phân chia lợi ích từ kết quả nghiên cứu còn nhiều bất cập. Mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022 đã bước đầu tháo gỡ một phần khó khăn khi cho phép tổ chức chủ trì đứng tên văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế chưa được giải quyết triệt để.
Hiện nay, phần lớn kết quả nghiên cứu khoa học ở Việt Nam không trực tiếp hình thành sáng chế hoặc giải pháp hữu ích, mà chủ yếu dừng lại ở báo cáo, luận chứng, mô hình thử nghiệm. Việc thương mại hóa các kết quả này gặp khó khăn do thiếu cơ chế định giá, chia sẻ lợi ích, cũng như hành lang pháp lý rõ ràng để chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp.
2.2. Rào cản từ quy định về viên chức và cán bộ
Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức vô tình tạo ra rào cản lớn đối với hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Theo quy định hiện hành, viên chức không được phép tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp KH&CN hoặc doanh nghiệp spin-off hình thành từ kết quả nghiên cứu.
Quy định này khiến nhiều nhà khoa học dù có ý tưởng, công trình nghiên cứu giá trị nhưng không thể trực tiếp thành lập, điều hành doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả của mình. Thực tế ở nhiều quốc gia phát triển, mô hình doanh nghiệp spin-off từ trường đại học và viện nghiên cứu là kênh quan trọng để chuyển giao công nghệ vào thực tiễn.
2.3. Rào cản về quản lý tài sản công
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công đặt ra nhiều rào cản. Các quy định yêu cầu kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước phải định giá trước khi chuyển giao cho doanh nghiệp và hoàn trả toàn bộ chi phí ngân sách đã đầu tư. Quy trình này không chỉ phức tạp, tốn thời gian mà còn tiềm ẩn rủi ro pháp lý, vì Việt Nam hiện chưa có tổ chức chuyên môn thực hiện định giá tài sản trí tuệ một cách minh bạch và chuyên nghiệp.
2.4. Rào cản từ tính chồng chéo của hệ thống pháp luật
Quy định pháp luật chồng chéo giữa các luật hiện hành như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Giá, Luật Giáo dục đại học... đang tạo ra những điểm nghẽn. Ví dụ, Luật Doanh nghiệp cho phép góp vốn bằng tài sản trí tuệ nhưng không có hướng dẫn cụ thể về việc xác định quyền sở hữu, định giá, dẫn đến việc kết quả nghiên cứu KH&CN khó được công nhận là tài sản góp vốn.
2.5. Rào cản về quản lý tài chính
Hệ thống quản lý tài chính đối với hoạt động KH, CN&ĐMST vẫn mang nặng tư duy kế hoạch hóa, chưa thực sự khuyến khích đổi mới sáng tạo. Theo Luật Ngân sách Nhà nước, phần kinh phí nghiên cứu không sử dụng hết trong năm phải hoàn trả, không được chuyển sang năm sau, dẫn đến tình trạng "chạy" dự án, sử dụng ngân sách cho đủ, không khuyến khích tiết kiệm và hiệu quả.
Những rào cản nêu trên không chỉ kìm hãm sự phát triển của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, mà còn làm hạn chế đóng góp của KH, CN&ĐMST vào tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
3. Những điểm mới nổi bật của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH, CN&ĐMST) số 93/2025/QH15 là sự tiếp nối và phát triển quan trọng của Luật Khoa học và Công nghệ 2013, đồng thời có nhiều điểm đổi mới căn bản, thể hiện tư duy đột phá về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Các nội dung mới nổi bật tập trung vào ba trụ cột chính:
3.1. Trao quyền tự chủ và bảo hộ quyền sáng tạo
Một điểm đổi mới cốt lõi của Luật là trao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì một cách tự động, không yêu cầu hoàn trả kinh phí, không cần định giá trước, không tính là tài sản nhà nước. Đây là bước tiến quan trọng nhằm tháo gỡ rào cản lớn tồn tại nhiều năm nay, xuất phát từ bất cập trong Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và Luật Sở hữu trí tuệ.
Việc trao quyền tự chủ trong sở hữu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu được đánh giá sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho các viện nghiên cứu, trường đại học trong việc đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường và thành lập các doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin-off). Đồng thời, Luật cũng mở rộng cơ chế góp vốn bằng tài sản trí tuệ, cho phép nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học trực tiếp thành lập doanh nghiệp spin-off từ kết quả nghiên cứu.
3.2. Chấp nhận rủi ro và thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Luật lần đầu tiên thể chế hóa nguyên tắc "chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo", khẳng định rõ: các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ KH, CN&ĐMST bằng ngân sách nhà nước hoặc vốn của doanh nghiệp nhà nước sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hành chính, dân sự nếu đã tuân thủ đầy đủ quy định, quy trình quản lý, không có gian lận, vi phạm pháp luật, dù kết quả nghiên cứu không đạt mục tiêu hoặc sản phẩm không được thị trường chấp nhận.
Quy định này mang tính đột phá, khuyến khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, chấp nhận thất bại để đổi mới, sáng tạo và phát triển. Đặc biệt, Luật yêu cầu lồng ghép kế hoạch quản trị rủi ro (Risk Assessment Plan) ngay từ khâu phê duyệt nhiệm vụ, xây dựng quy trình đánh giá rủi ro minh bạch, rõ ràng.
3.3. Kiến tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường KH&CN
Luật nhấn mạnh phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đồng bộ, hiện đại, gắn kết với hệ sinh thái toàn cầu, thông qua các quy định mới như:
Phát triển hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo: bao gồm vườn ươm, cơ sở tăng tốc, quỹ đầu tư mạo hiểm, sàn giao dịch công nghệ, sàn giao dịch đổi mới sáng tạo.
Thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước: để hỗ trợ các dự án đổi mới sáng tạo có rủi ro cao nhưng tiềm năng đột phá lớn.
Khuyến khích hình thành các cụm, khu nghiên cứu: phát triển và đổi mới sáng tạo tập trung, bao gồm khu công nghệ cao, công viên khoa học, cụm đổi mới sáng tạo, phát triển các đô thị khoa học và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, Luật bổ sung các chính sách ưu đãi vượt trội cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp, chuyên gia hỗ trợ và nhà đầu tư cá nhân, bao gồm ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân, thuế doanh nghiệp, miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước, quyền tiếp cận vốn, hạ tầng và thông tin.
4. Tác động dự kiến và kỳ vọng của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo được kỳ vọng sẽ tạo ra bước ngoặt quan trọng, góp phần tháo gỡ các rào cản pháp lý tồn tại lâu nay, đồng thời hình thành nền tảng pháp lý vững chắc, minh bạch, đồng bộ.
4.1. Thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu
Luật KH, CN&ĐMST được kỳ vọng sẽ tạo cú hích quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu và hình thành doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin-off) từ viện nghiên cứu, trường đại học, mô hình đã chứng minh hiệu quả tại nhiều quốc gia phát triển. Đặc biệt, cơ chế trao quyền sở hữu tự động cho tổ chức chủ trì đối với kết quả nghiên cứu từ ngân sách nhà nước, không yêu cầu hoàn trả kinh phí hay định giá trước, sẽ khuyến khích các nhà khoa học, viện trường chủ động tìm kiếm đối tác, huy động vốn đầu tư để thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.
Các doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (spin-off) được xem là cầu nối quan trọng giữa nghiên cứu và thị trường, giúp chuyển đổi tri thức từ phòng thí nghiệm thành sản phẩm, dịch vụ có giá trị thương mại, qua đó góp phần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển bền vững.
4.2. Kiến tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện
Luật sẽ kiến tạo một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển toàn diện, với sự tham gia của đầy đủ các chủ thể: nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, trường đại học, nhà đầu tư, chuyên gia, và các tổ chức trung gian hỗ trợ. Việc thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước, kết hợp với các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn lực xã hội hóa vào KH, CN&ĐMST.
Theo Nguyễn Thu Hương và cộng sự (2025), việc phát triển hạ tầng số (Nền tảng quản lý KH, CN&ĐMST quốc gia, Hệ thống thông tin quốc gia về KH, CN&ĐMST) sẽ giúp kết nối, chia sẻ dữ liệu, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả quản lý.
4.3. Khuyến khích tinh thần chấp nhận rủi ro
Luật sẽ khuyến khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, chấp nhận rủi ro và thất bại trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Việc chính thức hóa cơ chế "chấp nhận rủi ro" sẽ giúp giảm áp lực trách nhiệm, khuyến khích các nhà khoa học, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo đầu tư vào các ý tưởng mới, công nghệ mới, sản phẩm mới có tính đột phá, dù tiềm ẩn nhiều rủi ro.
4.4. Nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh
Theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, Luật là công cụ pháp lý quan trọng để thực hiện mục tiêu đến năm 2030 đưa KH, CN&ĐMST đóng góp trên 50% vào tăng trưởng kinh tế; phát triển đội ngũ nhân lực KH, CN&ĐMST chất lượng cao đạt chuẩn quốc tế; hình thành ít nhất 10 tập đoàn công nghệ lớn và 10.000 doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có năng lực cạnh tranh quốc tế.
5. Những thách thức trong quá trình thực thi và kiến nghị hoàn thiện chính sách
Dù Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo mang nhiều đột phá quan trọng, quá trình triển khai vào thực tiễn chắc chắn sẽ đối mặt với không ít thách thức. Việc nhận diện, phân tích kỹ lưỡng những thách thức này là điều cần thiết để xây dựng các giải pháp đồng bộ.
5.1. Những thách thức chính
5.1.1. Thách thức về đồng bộ hóa hệ thống pháp luật:
Dù Luật KH, CN&ĐMST đã có những quy định mang tính tháo gỡ, nhiều nội dung vẫn chịu sự chi phối, thậm chí xung đột với các luật khác như Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Giá, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp... Việc chưa kịp thời điều chỉnh, sửa đổi các luật có liên quan sẽ dẫn đến tình trạng "một cổ nhiều tròng", khiến các quy định tiến bộ trong Luật khó phát huy hiệu quả.
Một trong những rào cản lớn đối với quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu và thúc đẩy hợp tác đại học – doanh nghiệp tại Việt Nam chính là sự bất đồng bộ trong hệ thống pháp luật, dẫn đến việc các cơ chế chuyển giao tri thức chưa vận hành hiệu quả. Đây là kết quả nghiên cứu của Dilip Parajuli và cộng sự (2021) về chiến lược phát triển giáo dục đại học tại Việt Nam.
5.1.2. Thách thức về tư duy quản lý:
Tư duy quản lý khoa học – công nghệ theo lối cũ vẫn còn tồn tại dai dẳng. Một bộ phận cán bộ quản lý còn e ngại, sợ trách nhiệm, không dám chấp nhận rủi ro, dẫn đến tâm lý "an toàn là trên hết", "không làm thì không sai". Điều này có thể cản trở việc thực thi các quy định mới về trao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu, chấp nhận rủi ro, hoặc thử nghiệm các mô hình, công nghệ mới.
5.1.3. Thách thức về nguồn lực:
Nguồn lực tài chính và hạ tầng kỹ thuật cho KH, CN&ĐMST còn hạn chế. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này hiện chỉ chiếm khoảng 0,5–0,6% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới. Các nguồn lực xã hội hóa còn manh mún, thiếu các cơ chế bảo lãnh, chia sẻ rủi ro để thu hút nhà đầu tư tư nhân.
5.1.4. Thách thức về năng lực các chủ thể:
Năng lực của các chủ thể tham gia hệ sinh thái đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa có văn hóa đổi mới sáng tạo, thiếu tiềm lực tài chính, nhân sự trình độ cao và năng lực quản trị đổi mới.
5.2. Kiến nghị hoàn thiện chính sách
Để Luật KH, CN&ĐMST thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau:
5.2.1. Đồng bộ hóa hệ thống pháp luật:
Khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan nhằm bảo đảm tính thống nhất, cụ thể:
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công: sửa đổi các Điều 103, 104, 105 về quản lý tài sản trí tuệ, phù hợp với cơ chế trao quyền sở hữu tự động kết quả nghiên cứu.
Luật Sở hữu trí tuệ: bổ sung quy định về định giá, chuyển nhượng, góp vốn bằng tài sản trí tuệ có nguồn gốc từ nghiên cứu khoa học.
Luật Phòng, chống tham nhũng: quy định rõ các hành vi không coi là vi phạm trong hoạt động KH, CN&ĐMST có tính rủi ro, tránh tình trạng “hình sự hóa” nghiên cứu.
Luật Đầu tư công: bổ sung cơ chế đầu tư công cho các nhiệm vụ nghiên cứu, công nghệ đột phá, chấp nhận rủi ro cao.
5.2.2. Tăng cường truyền thông và đào tạo:
Tổ chức các chương trình truyền thông, tập huấn, hướng dẫn triển khai Luật trên phạm vi toàn quốc nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị, cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và xã hội.
5.2.3. Bảo đảm nguồn lực đầu tư:
Nâng dần tỷ lệ chi cho KH, CN&ĐMST đạt tối thiểu 2% GDP vào năm 2030, coi đây là “vốn mồi” để huy động nguồn lực xã hội. Đồng thời, phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, cơ chế bảo lãnh tín dụng và chia sẻ rủi ro cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.
5.2.4. Phát triển hạ tầng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo:
Tập trung xây dựng đồng bộ hạ tầng hỗ trợ đổi mới sáng tạo, gồm:
Ít nhất 50 vườn ươm công nghệ tại các tỉnh, thành phố;
20 trung tâm tăng tốc khởi nghiệp theo lĩnh vực chuyên ngành;
10 khu công nghệ cao quy mô lớn;
Hệ thống sàn giao dịch công nghệ tại các vùng kinh tế trọng điểm;
Nền tảng số quốc gia phục vụ quản lý, kết nối dữ liệu KH, CN&ĐMST.
5.2.5. Phát triển nhân lực chất lượng cao:
Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo trọng điểm, bao gồm:
10.000 tiến sĩ trong các ngành công nghệ cao;
1.000 chuyên gia quản lý đổi mới sáng tạo;
5.000 chuyên gia hỗ trợ khởi nghiệp;
Mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp nhận chuyển giao tri thức tiên tiến.
5.2.6. Thiết lập cơ chế giám sát minh bạch:
Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả thực thi Luật thông qua các chỉ tiêu định lượng:
Tỷ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu đạt tối thiểu 30% vào năm 2030;
Ít nhất 1.000 doanh nghiệp spin-off được hình thành từ viện nghiên cứu, trường đại học;
Đóng góp của KH, CN&ĐMST vào tăng trưởng GDP trên 50%;
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam đạt nhóm 35 quốc gia đứng đầu.
Kết luận
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15 được xây dựng trên tinh thần đổi mới toàn diện, phản ánh tư duy đột phá của Đảng và Nhà nước trong việc coi KH, CN&ĐMST là động lực then chốt, đột phá chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Việc tháo gỡ những rào cản pháp lý lâu nay, trao quyền tự chủ cho các chủ thể đổi mới sáng tạo, chấp nhận rủi ro có kiểm soát, đồng thời kiến tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đồng bộ, phát triển thị trường KH&CN và thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chính là những yếu tố mang tính nền tảng, tạo động lực mới cho phát triển đất nước.
Tuy nhiên, để Luật thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn, cần có quyết tâm chính trị cao, sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội, cùng các giải pháp đồng bộ: rà soát, hoàn thiện các luật liên quan; tăng cường đầu tư cho KH, CN&ĐMST; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hạ tầng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; thiết lập cơ chế giám sát minh bạch và thực chất.
Luật KH, CN&ĐMST không chỉ là một văn bản pháp luật mà còn là khung khổ chính sách quan trọng, hiện thực hóa các định hướng lớn tại Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, góp phần xây dựng một Việt Nam độc lập, tự chủ, đổi mới sáng tạo, hội nhập sâu rộng và phát triển nhanh, bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Tài liệu tham khảo
- Trần Thị Bảo Ánh (2025). Hoàn thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp khoa học công nghệ khởi nguồn từ các viện nghiên cứu, trường đại học. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường ĐH Luật Hà Nội.
- Ngô Thế Chi & Hoàng Thị Huyền (2025). Phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đưa đất nước phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới. Tạp chí Kinh tế và Dự báo.
- Nguyễn Thu Hương, Đỗ Anh Đức, Hà Diệu Linh (2025). Hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tạp chí Cộng sản, ngày 03/11/2024.
- Dilip Parajuli, Võ Kiều Dung, Jamil Salmi, Trần Thị Ánh Nguyệt (2021). Chiến lược phát triển đại học. World Bank.
- Liên hiệp hội Khoa học kỹ thuật Tuyên Quang (2025). Spin-off: Cầu nối giữa nghiên cứu và thị trường. Truy cập tại: http://lienhiephoikhkt.tuyenquang.gov.vn/n70925_spinoffcau-noi-giua-nghien-cuu-va-thi-truong
- Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chương trình số 07-CTr/TU của Thành uỷ Hà Nội về đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2025.
- Bộ Khoa học và Công nghệ (2025). Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Cơ hội đột phá phát triển. Truy cập tại: https://most.gov.vn.
- Báo Nhân Dân (2025). Hoàn thiện hệ thống pháp luật, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, ngày 12/06/2025.
- Báo Chính phủ (2025). Thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo bằng hành lang pháp lý hiện đại, ngày 06/06/2025.
- Ngân hàng Thế giới (2021). Cải thiện hiệu quả giáo dục đại học ở Việt Nam: Ưu tiên chiến lược và lựa chọn chính sách. Washington, DC.
- Nguyễn Thị Huyền Trang (2023). Quốc tế hóa giáo dục đại học ở Việt Nam (2001–2020). Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2025). Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong hợp tác quốc tế. Truy cập tại: https://mpi.gov.vn.
- MDPI (2021). Đánh giá hiệu quả hoạt động trong giáo dục đại học: Trường hợp của Việt Nam. Tạp chí Sustainability, Tập 13, Số 11. https://doi.org/10.3390/su13116219.
- Báo Sơn La (2025). Đổi mới đầu tư và quản lý nghiên cứu khoa học công nghệ. Báo Sơn La – Trang tin Tỉnh ủy Sơn La.
- Báo Nhân Dân (2025). Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hiện thực hóa nền tảng tư tưởng của Đảng, ngày 30/05/2025.
theo VŨ TRỌNG GIANG
Học viên cao học K32, Đại học Luật Hà Nội - Tạp chí luật sư VN