Liên quan đến vụ án “tranh chấp hợp đồng mượn tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư và Xuất nhập khẩu cà phê Tây Nguyên (Công ty Tây Nguyên) và bị đơn ông Đào Hải Nhân, bà Nguyễn Thị Thu Nhi, Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng đã ra quyết định kháng nghị toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 107/2018/DSPT ngày 7/8/2018 của TAND tỉnh Đắk Lắk.
Đồng thời, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2017/DSST ngày 29/9/2017 của TAND thị xã Buôn Hồ; giao hồ sơ cho TAND thị xã Buôn Hồ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Theo quyết định kháng nghị của Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng, tại thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 9/11/2006 (gọi tắt là hợp đồng chuyển nhượng), diện tích thửa đất số 112 ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đứng tên ông Đào Hải Nhân là 1.042m2.
Nội dung hợp đồng mượn tài sản và biên bản giao tài sản cùng ngày 10/11/2006 thể hiện thửa đất số 112 theo GCNQSDĐ cấp ngày 17/7/1993 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 9/11/2006 có diện tích 919m2.
Tuy nhiên, tại 3 bản hợp đồng chuyển nhượng (bản photo copy) do nguyên đơn cung cấp (trong đó 2 bản gồm 5 tờ 5 trang, tờ 1 có dấu giáp lai, tờ 2, 3, 4, 5 không có dấu giáp lai; 1 bản gồm 3 tờ 5 trang có đóng dấu giáp lai 3 tờ), diện tích đất chuyển nhượng là 772m2 (BL 22-24, BL 60-64, BL 66-70).
Còn tại bản hợp đồng chuyển nhượng được tòa án sao lục tại Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk ghi: Diện tích đất chuyển nhượng là 772m2 đã đo đạc, trừ lộ giới; 1.042m2 theo GCNQSDĐ, chưa trừ lộ giới (BL 185).
Tại Trích lục bản đồ địa chính số 477 ngày 18/12/2006 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Đắk Lắk thể hiện diện tích thửa đất số 112 qua đo đạc là 772m2 (diện tích sử dụng trong quy hoạch là 772m2, diện tích nằm trong quy hoạch mở rộng giao thông là 90m2) (BL 91, 92, 96).
“Như vậy, đến thời điểm ngày 18/12/2006, diện tích thửa đất số 112 mới được xác định là 772m2, nhưng trước đó tại hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 9/11/2006 đã ghi nhận diện tích đất chuyển nhượng 772m2 là không phù hợp”, quyết định kháng nghị của Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng nêu.
Cũng theo quyết định kháng nghị, tại phần chứng thực của hợp đồng ghi giao bên A 1 bản chính, giao cho bên B 2 bản chính, lưu tại Ủy ban 1 bản chính. Như vậy, hợp đồng có 4 bản chính. Tuy nhiên, tại phần chứng thực của hợp đồng lại ghi hợp đồng này được lập thành 3 bản chính và sau đó sửa thành 5 bản chính.
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng nghị của Viện KSND, quyết định các bản án tiếp tục được thi hành. Ảnh: Nhóm PV |
Nội dung chứng thực xác định bên A là ông Đào Hải Nhân chứ không có bà Nguyễn Thị Thu Nhi, trong khi nội dung hợp đồng thể hiện bên A là ông Đào Hải Nhân, bà Nguyễn Thị Thu Nhi và có chữ ký của 2 ông bà.
“Điều đó chứng tỏ bản hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 9/11/2006 do tòa án cấp sơ thẩm sao lục tại Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk không phải là bản gốc thực tế 2 bên đã ký. Các bản hợp đồng chuyển nhượng do nguyên đơn cung cấp cũng không được photo từ bản gốc, các bản hợp đồng này đều đã bị chỉnh sửa”, quyết định kháng nghị nêu rõ.
Tại Quyết định kháng nghị số 20/QĐKNGĐT-VKS-DS, Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng xét thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 9/11/2006 giữa Công ty Tây Nguyên với ông Đào Hải Nhân, bà Nguyễn Thị Thu Nhi có nhiều dấu hiệu bất thường. Thế nhưng, tòa án cấp sơ thẩm lại không đưa UBND phường An Lạc (trước đây là UBND thị trấn Buôn Hồ) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ việc ký kết và chứng thực hợp đồng có đúng pháp luật hay không?
Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, chưa xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn về việc đối chiếu công nợ giữa 2 bên, chưa làm rõ việc ký kết, chứng thực hợp đồng có hợp pháp hay không nhưng đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn là không đủ căn cứ, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
Ngày 28/5/2019 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng đã ra Quyết định giám đốc thẩm số 21/2019/DS-GĐT, không chấp nhận Quyết định số 20/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 20/2/2019 của Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng. Đồng thời, quyết định Bản án dân sự phúc thẩm số 107/2018/DSPT của TAND tỉnh Đắk Lắk và Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2017/DSST của TAND thị xã Buôn Hồ tiếp tục được thi hành án.
Bà Nguyễn Thị Thu Nhi cho biết, đang tiếp tục làm đơn kháng cáo lên TAND Tối cao, đề nghị xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.